Những diễn biến chính
kể từ tháng 5/2002: Lần đầu tiên
những dữ liệu khảo sát tại địa
phương đã cung cấp một bức tranh chi
tiết về thương vong do mìn/vật liệu
chưa nổ (UXO) gây ra và tình trạng
nhiễm bom mìn ở các địa phương
thuộc hai tỉnh miền Trung chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất. Các dự án
rà phá bom mìn, giáo dục phòng
tránh và hỗ trợ nạn nhân tiếp
tục mở rộng, kể cả sang các địa
phương khác trong nước.
Chính sách cấm mìn
Việt Nam chưa tham gia Hiệp
ước Cấm mìn. Quân đội Nhân
dân Việt Nam tiếp tục xem mìn sát
thương là vũ khí cần thiết và
tiết kiệm chi phí cho nền quốc
phòng.[1]
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn “hoàn toàn
ủng hộ” các khía cạnh nhân
đạo trong hoạt động rà phá bom
mìn và hỗ trợ nạn
nhân.[2]
Như các năm qua, Việt Nam bỏ phiếu
trắng cho nghị quyết của Đại hội
đồng Liên hợp quốc ủng hộ việc
phổ biến Hiệp ước Cấm mìn vào
tháng 11/2002. Việt Nam không tham gia Cuộc gặp
lần thứ tư của các Quốc gia thành
viên tại Geneva hồi tháng 9/2002 hay các
cuộc họp của ủy ban thường trực
liên kỳ vào tháng 2 và 5/2003.
Việt Nam chưa phê chuẩn Công ước
về Vũ khí thông thường (CCW) đã
ký năm 1981, và không tham dự cuộc
họp nào của CCW trong năm 2002 hay 2003. Việt Nam
cũng không dự hội thảo khu vực về
hoạt động phòng chống bom mìn ở
Đông Nam á tổ chức tại Phnom Penh
tháng 3/2003.
Tại cuộc gặp mặt toàn thể các
tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGO)
tổ chức thường niên vào tháng 1/2003
ở Hà Nội, Đại sứ Lê Văn
Bàng, cựu đại sứ Việt Nam tại Mỹ
và hiện đứng đầu ủy ban Công
tác phi chính phủ nước ngoài,
đã xác định bom mìn là một
trong bốn vấn đề ưu tiên hỗ trợ
phát triển từ phía các
NGO.[3]
Sản xuất, chuyển nhượng, tàng trữ
và sử dụng
Việt Nam được xem là
vẫn tiếp tục sản xuất và tàng
trữ một số lượng mìn không xác
định, trong khi vẫn duy trì chính sách
cấm xuất khẩu. Trả lời phỏng vấn
của Landmine Monitor, một quan chức cấp cao của
Bộ Quốc phòng tuyên bố rằng
“Việt Nam không trữ một lượng
mìn lớn, song chúng tôi có đủ
để bảo vệ đất nước mình
chống xâm
lược.”[4]
Không có báo cáo về việc sử
dụng mìn mới đây của các lực
lượng thuộc Chính phủ Việt Nam. Các
báo cáo trước của Landmine Monitor có
nhắc đến những lời cáo buộc chưa
được khẳng định về việc sử
dụng mìn, hay nói chính xác hơn là
tái sử dụng và tái chế mìn
của những người làm nghề săn bắn,
đánh cá, buôn lậu và buôn bán
sắt thép phế liệu. Năm 2002, thêm
nhiều chi tiết về các hoạt động
này xuất hiện trên báo chí. Những
người đi săn trộm ở Vườn Quốc
gia Pù Mát đã bị bắt quả tang
dùng mìn sát thương để giết
thú quí hiếm và ngăn cản cán
bộ kiểm lâm, dẫn đến nổ súng
giữa thợ săn, lực lượng kiểm lâm
và công an địa
phương.[5]
Một chuyện khác nhắc đến việc sử
dụng “thuốc nổ và mìn tự
chế” để đánh bắt cá ở
các tỉnh miền Trung Hà Tĩnh, Quảng
Bình và Quảng Ngãi. Một người
được hỏi cho biết, “Mọi người
[trong làng tôi] đều thích dùng mìn
vì có thể đánh được nhiều
cá
hơn.”[6]
Một số trong số mìn này thực sự
là mìn sát thương được cài
đặt hồi chiến tranh. Tuy nhiên, trong đa
số trường hợp, chúng là vật
liệu tự chế từ thuốc nổ lấy ra
từ những quả bom và quả đạn thời
chiến tranh. “Những người săn bom”
tìm kiếm và đào bới vật liệu
này, bán vỏ kim loại cho người buôn
phế liệu và thuốc nổ cho những lái
buôn khác. Những người này sau
đó cung cấp cho thợ săn và ngư
dân.[7]
Với giá tới 1,5 triệu đồng (100
đô la Mỹ) một quả bom đã tháo,
phần lợi nhuận cao hơn nhiều so với
làm nông nghiệp và các công việc
khác.[8]
Có những ghi nhận về thương vong ở
tất cả các giai đoạn trong quá trình
này, tạo nên một tỷ lệ đáng
kể về số vụ tai nạn có liên quan
đến mìn và UXO trong năm 2002. Hai phần
trăm (2%) số người được hỏi trong
một cuộc khảo sát về phòng tránh
bom mìn ở Quảng Trị thú nhận có
tham gia tháo gỡ, cưa cắt và/hoặc
bán mìn hay
UXO.[9]
Vấn đề mìn và UXO
Trung tâm Công nghệ xử
lý bom mìn (BOMICO), một bộ phận của
Bộ Tư lệnh Công binh thuộc Bộ Quốc
phòng, đã chỉnh lại con số ước
tính diện tích đất bị ảnh
hưởng bom mìn ở Việt Nam từ “ít
nhất là 5%” lên thành “gần
7-8%”. Được biết hiện vẫn còn
khoảng 15 - 20% số lượng mìn và UXO
từ thời chiến
tranh.[10]
Các nguồn tin chính thức tiếp tục sử
dụng con số từ 350.000-800.000 tấn vật liệu
chiến tranh nằm trong lòng
đất.[11]
Tổ chức Quỹ Cựu chiến binh Việt Nam
của Mỹ (VVAF) đã dẫn nguồn tin của
Bộ Quốc phòng cho hay “3 triệu quả
mìn [sát thương] vẫn còn nằm trong
lòng đất Việt
Nam.”[12]
Toàn bộ 61 tỉnh, thành, cũng như
các thành phố lớn đều bị ảnh
hưởng. Bộ Quốc phòng tuyên bố
rằng những vùng bị ảnh hưởng
nặng nề nhất trong cả nước là
các tỉnh miền Trung từ Khu phi quân sự
cũ (DMZ) trở vào, gồm Quảng Trị, Quảng
Nam và Quảng
Ngãi.[13]
Ban Biên giới thuộc Bộ Ngoại giao tháng
5/2003 xác nhận rằng mặc dù đã
tháo gỡ nhiều trong những năm 1990, mìn
sát thương vẫn còn là vấn
đề nghiêm trọng trên các tuyến
biên giới với Trung Quốc và Căm-pu-chia.
Có ít mìn song rất nhiều UXO
được tìm thấy trên biên giới
với Lào. Các bãi mìn tồn tại
từ thời chiến dịch Điện Biên Phủ
chống Pháp năm 1954, kéo dài đến
chiến tranh biên giới với Trung Quốc và
Khmer Đỏ những năm 1970. Những vùng nghi
ngờ bị ảnh hưởng, thường gọi
là “vùng trắng”, nằm gần khu
dân cư và được đánh dấu.
Trong những trường hợp khác, sơ đồ
bãi mìn không có, hoặc vị trí
đã bị dịch chuyển do lũ lụt, lở
đất và xói
mòn.[14]
Landmine Monitor đã rà soát báo chí
Việt Nam trong nước từ tháng 1/2002 đến
tháng 3/2003 và tìm thấy tai nạn bom mìn
xảy ra ở 40 trên 61 tỉnh, thành, kể
cả Hà Nội và thành phố Hồ
Chí
Minh.[15]
Trong số 86 vụ tai nạn được ghi nhận,
chỉ có 14% xảy ra ở ba tỉnh miền Trung
(Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên-Huế), nơi tập trung viện trợ quốc
tế. Tai nạn xảy ra nhiêù nhất ở Nam
Việt Nam cũ, với Phú Yên ven biển nam Trung
bộ và Gia Lai trên Cao nguyên Trung bộ có
con số được ghi nhận cao
nhất.[16]
Các cuộc điều tra cấp địa
phương ở tỉnh Quảng Trị và huyện
A Lưới công bố trong năm 2003 (xem phần
“Điều tra và Đánh giá”
dưới đây) cho thấy rằng trong
trường hợp loại vật liệu xác
định được, bom bi (BLU 26/36) chiếm 50%
số vụ tai nạn ở Quảng Trị và 52%
ở A Lưới, đạn cối M-79 chiếm 14% ở
Quảng Trị và 26% ở A Lưới, và
mìn sát thương chiếm 11% ở Quảng
Trị và 12% ở A
Lưới.[17]
Bom bi gây ra 80% số vụ tai nạn mà đội
phản ứng nhanh của tổ chức Clear Path
International đã xử lý ở hai địa
phương đó trong năm 2002 và quý
đầu năm
2003.[18]
Mìn sát thương tập trung quanh các
căn cứ quân sự, gần Khu phi quân sự
cũ, và ở các khu vực biên giới.
Các bãi mìn và khu vực nhiễm UXO
nặng gần các khu dân cư thường
đã được rà phá từ khi kết
thúc chiến tranh, trong khi các khu vực bị
ảnh hưởng thuộc vùng núi hay vùng xa
thường bị để nguyên.
Số liệu điều tra cho thấy người
dân các tỉnh Quảng Trị và Thừa
Thiên-Huế thường hay bắt gặp mìn
và UXO nhất khi đi lấy củi, làm ruộng
hay chăn gia súc, và ở gần
nhà.[19]
Tới 35% diện tích đất ở Quảng
Trị không thể sử dụng để trồng
trọt hay tái định
cư.[20]
25% số người được điều tra ở
Quảng Trị nói rằng bom mìn làm hạn
chế khă năng tiếp cận đất nông
nghiệp, và 20% nói rằng bom mìn khiến
việc di chuyển và đi lại khó
khăn.[21]
ở huyện A Lưới, Thừa Thiên-Huế, 35%
số người được phỏng vấn không
sử dụng phần đất được phân do
bị nhiễm hoặc nghi ngờ nhiễm bom
mìn.[22]
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
của Việt Nam đẩy thêm ngày càng
nhiều người dân tới sinh sống gần
những khu vực bị ảnh hưởng hơn.
Việc mở rộng đô thị ở thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà
Nẵng và những nơi khác nay đã
tiến đến những vùng trong chiến tranh
là khu vành đai quân sự. Đáng
kể hơn nữa là những vùng nông
thôn xa xôi và bị ảnh hưởng nặng
nay đang trở nên dễ tiếp cận nhờ
việc xây dựng những con đường mới
như Quốc lộ Hồ Chí Minh dài 1.676 km
chạy dọc theo biên giới phía tây của
Việt Nam. Với khoảng nửa chiều dài con
đường sắp hoàn thành và dự
kiến khánh thành trong tháng 9/2003, hàng
vạn người dân định cư và di
cư sẽ chuyển đến những khu đất ven
đường để kiếm sống. Tuy nhiên,
quân đội mới chỉ rà phá nền
đường; những người định khai
phá đất đai dọc hai bên đường
để trồng trọt hay làm nhà phải
tự liều mạng mà
làm.[23]
Điều tra và đánh giá
Quân đội Việt Nam, Bộ
Y tế và Bộ Lao động-Thương binh
và Xã hội (MOLISA) đều đã thu
thập số liệu nội bộ về các
đối tượng liên quan đến bom mìn.
Tuy một số kết luận của các cuộc
điều tra này về tổng diện tích
đất bị ảnh hưởng bom mìn hay tổng
số người bị chết và bị
thương kể từ năm 1975 đã
được công bố, song chi tiết và
phương pháp khảo sát hiếm khi
được tiết lộ và độ xác
thực của số liệu hiện chưa rõ.
Các cuộc điều tra đánh giá
tác động của bom mìn ở địa
phương mang tính đột phá đã
hoàn thành trong năm 2002 và đầu năm
2003 tại ba huyện thuộc các tỉnh Quảng
Trị và Thừa Thiên-Huế. Công ty tư
vấn môi trường Hatfield có trụ sở
tại Canada đã tiến hành một cuộc
điều tra chung với ủy ban 10-80, một cơ quan
của Bộ Y tế Việt Nam có tiếng về
nghiên cứu chất độc hóa học,
chẳng hạn như chất Da cam. Kinh phí do Cơ
quan Phát triển của Canada (CIDA) tài trợ.
Hoạt động thu thập số liệu bắt
đầu năm 2001 ở huyện A Lưới, Thừa
Thiên-Huế, và bao gồm các thông tin
về thực trạng mìn và UXO, thương vong,
mức độ hiểu biết về phòng
tránh, cũng như tác động của
mìn, UXO và chất độc hoá học
tới sức khỏe con người và các
hoạt động kinh tế-xã hội. Bảng
câu hỏi điều tra cho từng phần của
khảo sát được dựa trên kinh
nghiệm điều tra về tác động của
mìn sát thương do tổ chức Handicap
International thực hiện ở Lào năm 1997. Báo
cáo cuối cùng của Hatfield, ra mắt tháng
1/2003, sử dụng số liệu ném bom của
Mỹ trong thời gian chiến tranh và phương
pháp cảm biến số liệu từ xa bằng
thiết bị địa không gian kết hợp
với phỏng vấn tại
chỗ.[24]
Tài liệu điều tra về mìn/UXO của
công ty Hatfield và ủy ban 10-80 đã
được sử dụng ở huyện Phong
Điền, Thừa Thiên-Huế, nơi tháng 1/2002
tổ chức Australian Volunteers International bắt đầu
triển khai dự án rà phá UXO và
phát triển cộng đồng do AusAID tài
trợ, với sự đào tạo và hỗ
trợ kỹ thuật của MAG. Cuộc điều tra
ở Phong Điền, hoàn toàn do cán bộ
huyện tiến hành và hoàn thành vào
tháng 3/2003, đã phỏng vấn các nạn
nhân bom mìn sống sót, gia đình họ,
và những người cao tuổi trong
làng.[25]
ở tỉnh Quảng Trị, Dự án RENEW,
sáng kiến chung của chính quyền tỉnh
và tổ chức Quỹ tưởng niệm cựu
chiến binh Việt Nam của Mỹ (VVMF), đã
tiến hành điều tra đánh giá
tác động của bom mìn ở huyện
Triệu Phong trong tháng 9/2002. RENEW sau đó
đã thực hiện hai khảo sát trong toàn
tỉnh cùng với UNICEF và Sở Y tế
tỉnh, một khảo sát về “KAP”
(Hiểu biết, ý thức và Hành vi) và
khảo sát thứ hai về thương vong. Các
cuộc phỏng vấn đã được tiến
hành ở 12.000 hộ gia đình, sử dụng
bộ Tiêu chuẩn Phòng chống bom mìn
Quốc tế (IMAS) năm 2001. Kinh phí điều tra
tổng cộng 35.000 đôla do UNICEF, Quỹ Freeman,
và Công ty Thương mại điện tử
Christos Cotsakis tài
trợ.[26]
Kết quả của các cuộc điều tra
này, cũng như điều tra ở huyện
Triệu Phong, sẽ được chính thức
công bố vào tháng 6/2003.
Đề án điều tra lớn nhất cho
Việt Nam, một cuộc điều tra về tác
động của bom mìn, đã được
đưa ra đàm phán từ tháng
12/2000.[27]
Tháng 1/2003 đã đạt được
bước đột phá khi VVAF và BOMICO ký
biên bản thỏa
thuận.[28]
Văn kiện dự án và kinh phí, tuy vậy,
vẫn còn phải được Bộ trưởng
Quốc phòng, Thủ tướng và các
bộ có liên quan khác phê duyệt
trước khi tiến hành thực hiện. VVAF tin
tưởng rằng các bước này sẽ
được hoàn tất vaod giữa hay cuối
năm
2003.[29]
Bộ Ngoại giao Mỹ cam kết cấp kinh phí 6
triệu đôla cho cuộc điều tra
này.[30]
Giai đoạn đầu tiên của cuộc
điều tra được phép thu thập số
liệu ở ba tỉnh miền Trung (Quảng Trị,
Quảng Bình và Hà Tĩnh). Việc mở
rộng dự án trong tương lai còn phụ
thuộc vào nhận xét về giai đoạn
đầu này của các cơ quan chức năng
của Việt Nam, VVAF và cơ quan tài trợ
Mỹ.[31]
Việc thu thập số liệu sẽ do BOMICO thực
hiện và đối chiếu với số liệu
lưu trữ về việc ném bom của Mỹ. Do
các cuộc điều tra của UNICEF và RENEW
đã thu thập hầu hết thông tin này
ở Quảng Trị, VVAF hy vọng có thể dựa
trên tài liệu sẵn có để
điều chỉnh các biểu mẫu
chuẩn.[32]
Điều phối và lập kế hoạch
Năm 2002 không ghi nhận sự
chuyển biến nào trong hoạt động
điều phối ở cấp quốc gia. Bộ Quốc
phòng tiếp tục đóng vai trò chủ
đạo trong hoạt động phòng chống bom
mìn.[33]
BOMICO chịu trách nhiệm điều tra và
nghiên cứu về mìn/UXO, công nghệ và
trang thiết bị rà phá, và tháo gỡ
bom mìn. Công ty có thể tham gia các thỏa
thuận quốc tế với sự cho phép của
Bộ Quốc
phòng.[34]
Tuy nhiên BOMICO không phải là cơ quan
điều phối quốc gia đối với các
dự án do nước ngoài tài trợ.
ở cấp tỉnh, chính quyền Quảng Trị
hiện đang xin phép mở một “trung tâm
điều phối bom mìn”. Trung tâm này
có thể trở thành mô hình để
các tỉnh khác học tập. Bộ Quốc
phòng Mỹ đã cử hai đoàn
đến Quảng Trị để nhắm địa
điểm mở trung
tâm.[35]
Hiện nay, chính quyền tỉnh Quảng Trị
đang điều phối và quản lý các
đối tác quốc tế trong hoạt động
rà phá, giáo dục phòng tránh bom
mìn, hỗ trợ kinh tế và trợ giúp
nạn nhân tại 5 huyện. Tổng cộng có 20
tổ chức của Việt Nam, trong đó có
Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên và
ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em,
hiện đang “vừa làm vừa học”
cùng với các tổ chức quốc tế,
chuyên nghiệp hoá hoạt động của
mình. Kết quả là Phòng Đối
ngoại tỉnh Quảng Trị đã được
nâng lên cấp quốc gia vào đầu năm
2003.[36]
Một số NGOs đã gặp khó khăn khi
mở rộng hoạt động từ tỉnh này
sang tỉnh khác - dù đó là tỉnh
lân cận. Do việc này đòi hỏi
phải tiến hành thỏa thuận về dự
án mới với chính quyền tỉnh thứ hai
lại từ đầu nên nó cũng đầy
thử thách như khi mới đến một
đất nước xa
lạ.[37]
Rà phá mìn/UXO
Rà phá quân sự
Quân đội Nhân dân
Việt Nam là cơ quan chủ chốt tham gia hoạt
động rà phá. Bất kỳ ai phát
hiện thấy mìn hoặc UXO trên đất
ở hay công trường của mình đều
có thể liên hệ với ban chỉ huy quân
sự huyện. Các hoạt động rà phá
qui mô lớn và khó hơn do Bộ Tư
lệnh Công binh hay những công ty rà phá
bom mìn thương mại của quân đội
như trưnừg Sơn và Lũng Lô tiến
hành.[38]
BOMICO cũng rà phá theo hợp đồng, cũng
như chịu trách nhiệm đào tạo,
xây dựng tiêu chuẩn, phát triển trang
thiết bị, điều tra, thống kê và
nghiên cứu dưới sự chỉ đạo
của Bộ Tư lệnh Công
binh.[39]
Các công ty và đơn vị quân
đội tính 18-20 triệu đồng (1.170-1.300
đôla) một hécta công rà phá
những vùng bị nhiễm ít bom mìn, và
tới 40-50 triệu đồng (2.600-3.250 đôla)
đối với những nơi bị nhiễm
nặng.[40]
Theo Đại tá Bùi Minh Tâm, Giám
đốc BOMICO, hoạt động rà phá bom
mìn do Chính phủ tài trợ tập trung
vào các mục tiêu hỗ trợ phát
triển nông nghiệp, xây dựng nhà ở
và các dự án hạ tầng qui mô
lớn. Về nông nghiệp, mới chỉ rà
phá trên bề mặt và ở độ
sâu 0,3 mét, trong khi ở các khu vực khác
rà phá được thực hiện ở
độ sâu lớn hơn tuỳ theo yêu cầu
của các hoạt động tiếp theo, như
xây dựng chẳng hạn. đại tá Tâm
cho biết, từ năm 1975 đến năm 2002, 1.200
triệu mét vuông đã được rà
phá với 4 triệu quả mìn sát
thương và 8 triệu vật liệu chưa nổ
được tháo gỡ. Không có số
liệu thống kê hàng
năm.[41]
Hoạt động rà phá ở các khu
vực biên giới do cả các đơn vị
quân đội lẫn các đội công binh
biên phòng tiến hành. Giai đoạn rà
phá dọc biên giới đầu tiên
đã được hoàn thành vào
những năm 1990; Giai đoạn hai, chi tiết hơn,
hiện đang được thực
hiện.[42]
ở các tỉnh Lai Châu và Lạng Sơn
trên biên giới Trung Quốc, dải đất
dọc biên giới đã được rà
phá, và hoạt động rà phá hiện
đang được tiến hành trong các thung
lũng và dọc theo những con đường
cắt ngang qua biên
giới.[43]
Dự án rà phá bom mìn lớn nhất
của quân đội trong những năm gần
đây là một phần trong công trình
xây dựng đường Hồ Chí Minh vắt
ngang những dãy núi ở miền Trung Việt Nam.
Chi phí xây dựng con đường này
là 500 triệu đôla; 10 triệu đôla, hay
2% trong số đó được chi cho rà
phá bom mìn, vượt quá con số dự
toán.[44]
Chỉ riêng đoạn từ Hà Tĩnh
đến Kon Tum, báo chí đưa tin trong
tháng 4/2002 rằng 20.000 quả bom đã
được phát hiện ở độ sâu
tới 10
mét.[45]
Các dự án rà phá quân sự
khác hiện nay gồm xây cầu và mở
rộng đường dọc theo Quốc lộ 1A,
Quốc lộ 9 và dọc biên giới
Lào.[46]
Năm 2002, các đội công binh rà phá
bom mìn đã được sử dụng
nhiều trong các hoạt động xây dựng,
kể cả hỗ trợ các công ty quốc
tế như nhà máy của Nestle ở thành
phố Hồ Chí Minh và đường ống
dẫn dầu của British Petroleum (BP) ở tỉnh
Bà Rịa-Vũng
Tàu.[47]
Tại một địa điểm bị nhiễm bom
mìn nặng ở Quảng Trị, nơi tỉnh
dự kiến xây dựng một nhà máy
chế biến sắn, chính quyền tỉnh
đã thuê một cơ quan rà phá bom
mìn quốc tế chứ không nhờ quân
đội.[48]
Các tổ chức quốc tế
Có 5 tổ chức quốc tế tham gia hoạt
động rà phá bom mìn ở tỉnh
Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên-Huế
trong năm 2002. Kể từ khi dự án đầu
tiên được quốc tế tài trợ
bắt đầu vào năm 1996, 6,57 triệu mét
vuông đất ở Quảng Trị đã
được tháo gỡ 35.000 quả mìn và
UXO; tổng số 1,6 triệu mét vuông đất
đã được rà phá trong năm 2002
và ba tháng đầu năm
2003.[49]
Năm 2002, 634.950 mét vuông đất đã
được rà phá ở Thừa
Thiên-Huế.[50]
Tổ chức phi chính phủ Anh Mines Advisory Group
(MAG), với 150 nhân viên địa phương
và 7 cố vấn nước ngoài, là tổ
chức lớn nhất trong số các cơ quan rà
phá bom mìn quốc tế. Năm 2002, MAG đã
hoàn thành một dự án kéo dài hai
năm rưỡi, rà phá một khu đất 150
hécta ở huyện Gio Linh. Dự án này ban
đầu do Cơ quan Viện trợ Đan Mạch
(DANIDA), sau đó là Adopt-A-Minefield và Quỹ
Freeman tài trợ. Hoạt động sau đó
được triển khai tại 4 địa điểm
mới với tổng diện tích 165 hécta ở
huyện Hải Lăng, Quảng Trị, do Adopt-A-Minefield
và các cơ quan khác tài trợ. Tháng
11/2002, MAG ký thỏa thuận trị giá 639.000
đôla để rà phá 80 hécta ở
huyện Lệ Thủy. MAG còn ký thỏa thuận
hai năm trị giá 620.000 đôla với tỉnh
để triển khai đội rà phá bom
mìn lưu động của tỉnh. Tổ chức
này còn hỗ trợ kỹ thuật cho đội
rà phá bom mìn lưu động do úc
tài trợ, bắt đầu hoạt động
ở huyện Phong Điền, Thừa Thiên-Huế
năm 2003. Không giống như các hoạt
động của MAG, dự án của tổ chức
Australian Volunteers International lại có sự tham gia
của một nhóm công binh quân
đội.[51]
Hai NGO Đức cũng đã mở rộng
hoạt động trong năm 2002 là Solidaritaetsdienst
International (SODI) ở tỉnh Quảng Trị và Potsdam
Kommunikation (PK) ở Thừa Thiên-Huế. Cả hai
tổ chức đều quản lý các dự
án phòng chống bom mìn tổng hợp,
giáo dục phòng tránh và tái
định cư. Trong mảng hoạt động rà
phá, chuyên gia từ công ty rà phá bom
mìn Đức GERBERA giám sát việc rà
phá và đào tạo kỹ thuật viên
rà phá người
Việt.[52]
SODI đã rà phá xong hai địa điểm
với tổng diện tích 4,13 triệu mét
vuông ở các huyện Cam Lộ và Triệu
Phong, Quảng Trị, vào tháng 12/2002. PK bắt
đầu rà phá vào tháng 5/2002 trên
diện tích 750.000 mét vuông thuộc các
xã Phú Bài và Thủy Phú, Thừa
Thiên-Huế.[53]
đến cuối năm, tổ chức này
đã rà phá được 614.950 mét
vuông.[54]
Kinh phí cho các dự án này, trung bình
300.000-500.000 đôla mỗi năm cho SODI và PK,
lấy từ Bộ Ngoại giao Liên bang Đức
và Bộ Hợp tác Kinh tế
Đức.[55]
Tổ chức phi chính phủ Mỹ Clear Path
International đã rà phá xong 12.500 mét
vuông cuối cùng trong số 435.000 mét vuông
đất ở thị xã Đông Hà,
Quảng Trị, vào tháng 6/2002. Dự án
trị giá 700.000 đôla do Quỹ Freeman tài
trợ và hợp đồng thực hiện với
tập đoàn rà phá bom mìn thương
mại UXB International triển khai trên một phần
của “Hàng rào McNamara” nằm về
phía nam của
DMZ.[56]
Một NGO khác của Mỹ là PeaceTrees Vietnam
đã rà phá 60.000 mét vuông trong năm
2002.[57]
Khu đất này là một phần của
Làng Hữu nghị Đông Hà mà PeaceTrees
đã trao tặng hồi tháng
9/2002.[58]
Hoạt động rà phá bom mìn lưu
động ngày càng được chú
trọng. MAG đã triển khai đội lưu
động ở huyện Gio Linh, Quảng Trị, trong
năm 2001, chuyển hoạt động sang huyện
Hải Lăng tháng 5/2002. Hai đội gồm 6
người mỗi đội đi đến từng
nhà, tháo gỡ 200-300 vật liệu nổ mỗi
tuần. ở Quảng Bình, MAG bắt đầu
tổ chức một đội lưu động ở
Đồng Hới trong tháng
5/2003.[59]
Các đội lưu động của SODI tham gia
cả việc rà phá nhỏ lẫn giáo
dục phòng tránh bom mìn, bắt đầu
vào tháng 4/2002 ở hai huyện Cam Lộ và
Triệu Phong, Quảng
Trị.[60]
Potsdam Kommunikation triển khai hoạt động của
một đội lưu động “đặc
biệt” xung quanh tỉnh Thừa Thiên-Huế trong
năm 2002 và dự định bổ sung thêm
một đội lưu động thường trực
gồm một chuyên gia Đức và năm
chuyên gia Việt Nam cho dự án tổng hợp
của tổ chức này được thực
hiện trên toàn tỉnh trong tháng
7/2003.[61]
Các tổ chức khác có kế hoạch
thành lập các đội lưu động
vào cuối năm 2003 là Dự án RENEW và
Australian Volunteers
International.[62]
Tái định cư và sử dụng đất
sau rà phá
Tất cả các tổ chức quốc tế
hoạt động ở miền Trung Việt Nam
đều đưa kế hoạch sử dụng
đất sau rà phá vào dự án. SODI
tái định cư cho 100 gia đình ở
một làng mới thuộc huyện Triệu Phong,
Quảng Trị, đồng thời xây dựng một
trường tiểu học mới và hệ thống
điện,
nước.[63]
Thêm 1.000 gia đình sẽ được tái
định cư trên một diện tích
đất 1,1 triệu mét vuông đã rà
phá ở huyện Cam Lộ, nơi SODI hiện đang
xây dựng hai làng tái định cư
mới.[64]
Tháng 9/2002, tổ chức PeaceTrees Vietnam đã giao
tặng Làng Hữu nghị ở thị xã
Đông Hà, Quảng Trị, tại một
địa điểm thuộc căn cứ lính
thuỷ đánh bộ cũ của Mỹ. Dự
án trị giá 300.000 đôla này xây
tặng nhà ở cho 100 gia đình có hoàn
cảnh khó
khăn.[65]
Tại địa điểm do MAG rà phá ở
huyện Gio Linh, 1 triệu mét vuông đã
được bàn giao lại cho các gia
đình địa phương, và 78 ngôi
nhà được xây với chi phí 24
triệu đồng (1.560 đôla) mỗi căn. Khu
tái định cư này đã
được chính thức khánh thành
vào tháng 3/2003 và đánh dấu giai
đoạn đầu tiên của dự án
phục hồi môi trường gồm hệ thống
đường sá, thủy lợi, cung cấp
điện, trường học và trạm y
tế.[66]
Tổ chức Plan International sẽ thực hiện vai
trò tương tự, phối hợp cùng với
MAG xây dựng sau rà phá ở huyện Lệ
Thủy, Quảng Bình, bắt đầu vào
tháng
5/2003.[67]
Tại tỉnh Thừa Thiên-Huế, tổ chức
Potsdam Kommunikation đã quyên góp tài trợ
để xây dựng một nhà trẻ và
một trường học, hỗ trợ trực tiếp
cho 35 gia đình nghèo ở xã Duong Hoa, nơi
đã rà phá xong trong năm 2002. Các
hoạt động tái định cư của PK
được lập kế hoạch trước ít
nhất là một năm dựa trên những ưu
tiên của đối tác dự án và
hoạt động rà phá được thực
hiện ở nhiều khu vực khác
nhau.[68]
Giáo dục phòng tránh bom mìn
ở cấp trung ương,
Chính phủ Việt Nam tiến hành hoạt
động giáo dục phòng tránh bom mìn
như là một phần của chương trình
phòng tránh thương tật quốc gia. ủy
ban Thường trực Quốc gia về Phòng
tránh tai nạn và thương tật, nòng
cốt là Bộ Y tế, đã được
thành lập năm 2001. ủy ban còn bao gồm
thành viên từ các tổ chức quần
chúng được Chính phủ hỗ trợ
như Hội Phụ nữ và Đoàn Thanh
niên. Hội nghị Quốc gia về Phòng
tránh thương tật do UNICEF tài trợ
đã diễn ra trong tháng
9/2002.[69]
Trong các năm 2003-2005, ủy ban Thường trực
đã lên kế hoạch mở rộng
chương trình phòng tránh thương
tật, trong đó có giáo dục phòng
tránh bom mìn, trong các nhà trường
và cộng đồng trên cả nước,
với sự hỗ trợ của UNICEF và Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO). Thêm vào
đó, ủy ban còn có kế hoạch
thực hiện một cuộc điều tra chi tiết
về thương tật ở 6 tỉnh, trong đó
có Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế
vào cuối năm
2003.[70]
Một số tổ chức quần chúng cũng
có các chương trình giáo dục
phòng tránh bom mìn riêng ở những
vùng bị ảnh hưởng nặng. Phần lớn
các nỗ lực này được nhắm
vào trẻ em. ủy ban Chăm sóc và Bảo
vệ trẻ em tỉnh Quảng Trị đã tổ
chức các chương trình nghệ thuật,
trò chơi và các cuộc thi nhằm nhắc
nhở các em cảnh giác với hiểm hoạ
bom
mìn.[71]
UNICEF triển khai một chương trình giáo
dục phòng tránh bom mìn trên toàn
quốc vào tháng 1/2002 với sự hợp
tác của Bộ Y tế và Bộ Giáo
dục-Đào tạo thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng và các
chương trình dựa vào nhà trường
ở cấp cộng đồng. Các hoạt
động bao gồm thực hiện một chương
trình học ở 15 tỉnh, dịch tài liệu
của các quốc gia khác, và làm biển
báo bom mìn, cũng như tiến hành vận
động ở cấp quốc gia. Chương trình
trị giá 250.000 đôla kết thúc vào
cuối năm
2003.[72]
Dự án RENEW phát sóng ba bộ phim tài
liệu về mìn và UXO trên truyền hình
tỉnh trong năm 2002, cũng như 14 thông
điệp chung phát lần lượt mỗi
tuần, mỗi thông điệp nhắm tới một
nhóm đối tượng có nguy cơ cao cụ
thể như nông dân, trẻ em và người
buôn bán phế liệu. Kinh phí 58.000
đôla cho hoạt động giáo dục
phòng tránh bom mìn năm 2002 của tổ
chức này do UNICEF và các cá nhân
tài
trợ.[73]
Dự án thí điểm của tổ chức
Catholic Relief Services phối hợp với Sở Giáo
dục-Đào tạo tỉnh Quảng Trị
để giới thiệu chương trình giáo
dục phòng tránh bom mìn bậc tiểu
học ở 5 xã của huyện Triệu Phong,
Quảng Trị, hiện đang dự kiến nhân
rộng ra toàn tỉnh. Năm 2002, dự án
đã giúp cho 200 giáo viên và 4.050
học sinh, với kinh phí một năm là 155.000
đôla.[74]
Tổ chức PeaceTrees Vietnam tiến hành tập
huấn giáo viên về giáo dục phòng
tránh bom mìn cùng với Hội Phụ nữ
và tại các thư viện ở Quảng
Trị, và đã tập huấn được
cho trên 2.000 người trong năm
2002.[75]
SODI kết hợp các hoạt động giáo
dục phòng tránh với hoạt động
của các đội xử lý vật liệu
nổ ở các huyện Cam Lộ và Triệu
Phong, và tính cho đến nay đã
đến được với 5.000 học
sinh.[76]
Tổ chức Potsdam Kommunikation bắt đầu một
chương trình giáo dục phòng tránh
bom mìn cho cộng đồng trên toàn tỉnh
Thừa Thiên-Huế trong năm 2002, với trọng
tâm là đi thăm các trường học
ở huyện Hương Thủy, nơi đang tiến
hành hoạt động rà phá. Tổ chức
này thực hiện các hoạt động
giáo dục phòng tránh bom mìn với
sự phối hợp của Hội Phụ nữ và
Đoàn Thanh niên
tỉnh.[77]
Tổ chức Vietnam Assistance for the Handicapped triển khai
dự án giáo dục phòng tránh bom
mìn dài hai năm ở các tỉnh Quảng
Bình và Thanh Hóa vào tháng 4/2002, với
sự hợp tác của Sở lao động,
Thương binh và Xã hội
tỉnh.[78]
Số liệu điều tra và kết quả
đánh giá từ nhiều chương trình
nói trên đã được công bố
trong năm 2002 và đầu năm 2003, chỉ ra
được mức độ nhận thức về
phòng tránh bom mìn của người dân
và hiệu quả của các hoạt động
nâng cao ý thức phòng tránh bom mìn. 93%
số người được điều tra ở
Quảng Trị ý thức được rằng
mìn làm chết người hoặc gây
thương tật. 10% ngày nào hoặc tuần
nào cũng nhìn thấy UXO hoặc mìn, 17%
mỗi tháng bắt gặp ít nhất một
lần, và 44% mỗi năm bắt gặp ít
nhất một lần. Tuy nhiên chỉ rất ít
người cắm biển báo xuống đất
(15%); hầu hết đơn giản là bỏ đi
mà không nói với ai (41%), trong khi 35% có
báo cáo chính quyền địa
phương.[79]
Những biện pháp hiệu quả nhất
để nâng cao ý thức phòng tránh
là truyền hình mà theo điều tra ở
Quảng Trị, đến được với 95%
dân chúng. Đứng thứ hai là các
chương trình nhắm vào trường học,
đạt 17-19%, và thứ ba là hoạt
động ngoại tuyến dựa vào cộng
đồng.[80]
CRS phát hiện thấy số người thu nhặt
phế liệu ở hai xã có dự án
giáo dục trong nhà trường giảm 38%,
và gắn sự thay đổi này với việc
trẻ em có tác động đến hành vi
của cha
mẹ.[81]
Cũng như vậy, UNICEF tuyên bố “có
mối tương quan chặt chẽ giữa việc
thực hiện các hoạt động giáo
dục phòng tránh bom mìn có chất
lượng với việc số vụ tai nạn có
liên quan đến bom mìn giảm
đi.”[82]
Ông Hoàng Đăng Mai, Trưởng phòng
Đối ngoại Quảng Trị đồng ý
rằng “người dân ở những vùng
bị ảnh hưởng xử sự tự tin hơn
và an toàn hơn so với trước
đây.”[83]
Kinh phí cho hoạt động phòng chống bom
mìn
Việt Nam không công bố
ngân sách quốc gia dành cho hoạt động
phòng chống bom mìn, song các nguồn tin
chính thức cho biết rằng Chính phủ
mỗi năm đầu tư “hàng trăm tỷ
đồng (hàng chục triệu đôla) cho
hoạt động phát hiện và tháo gỡ
bom
mìn”.[84]
Bộ Quốc phòng ước tính rằng
việc rà phá toàn bộ sẽ tốn 4
tỷ đôla, cộng thêm 1 tỷ nữa cho
các nhu cầu hỗ trợ nạn
nhân.[85]
Tổng kinh phí cho hoạt động phòng
chống bom mìn nhân đạo ở Việt Nam
là 3.638 triệu đôla trong năm tài
chính Mỹ
2002.[86]
Chương trình rà phá bom mìn nhân
đạo của Bộ ngoại giao Mỹ đã
tài trợ 1,5 triệu đôla cho trang thiết
bị rà phá bom mìn. Khoản viện trợ
cấp qua BOMICO này bao gồm máy dò mìn
Minelab F1A4, trang bị bảo hộ cá nhân, máy
dò kim loại sâu, dụng cụ xử lý
vật liệu chưa nổ, bộ dụng cụ y tế
dùng trong trường hợp chấn thương do
nổ, xe cơ giới, và thiết bị rà
phá bom mìn dưới
nước.[87]
Bộ Quốc phòng Mỹ đã đóng
góp ước khoảng 638.000 đôla, và
Quỹ Nạn nhân chiến tranh Leahy của USAID ủng
hộ 1,5 triệu. Quỹ nạn nhân chiến tranh Leahy
đã viện trợ 16 triệu đôla cho
người tàn tật ở Việt Nam kể từ
năm
1991.[88]
Cơ quan viện trợ Nhật Bản JICA đã
hỗ trợ Quân đội Nhân dân Việt Nam
866.000 đôla để mua sắm trang thiết bị
rà phá bom
mìn.[89]
Đây là một phần trong tổng số 12
triệu đôla Nhật Bản cam kết hồi
tháng 4/2002 để hỗ trợ rà phá bom
mìn trên xa lộ Hồ Chí
Minh.[90]
Các NGOs quốc tế hoạt động phòng
chống bom mìn và hỗ trợ nạn nhân
đã nhận được kinh phí từ
các nguồn song phương, đa phương và
tư nhân trong năm 2002. AusAID tài trợ 650.000
đôla Mỹ cho chương trình rà phá
bom mìn/ phát triển cộng đồng tổng
hợp của tổ chức Australian Volunteers International
ở huyện Phong Điền, Thừa Thiên-Huế
trong năm
2002.[91]
Đức đóng góp 519.000 đôla cho Potsdam
Kommunikation và 585.000 đôla cho SODI trong năm
2002.[92]
Các nước tài trợ song phương
khác được ghi nhận gồm Canada, Luxembourg,
Ireland, và Anh
quốc.[93]
UNICEF bắt đầu tài trợ chương
trình giáo dục phòng tránh bom mìn
riêng vào tháng 1/2002 và còn cấp kinh
phí cho một cuộc điều tra của Dự
án RENEW ở tỉnh Quảng Trị.
Về kinh phí từ nguồn tư nhân, các
NGOs quốc tế trong năm 2002 nhận được
những khoản tài trợ từ 14 quỹ và
tổ chức tài trợ từ
thiện.[94]
Nhà tài trợ tư nhân lớn nhất
là Quỹ Freeman có trụ sở ở Mỹ
đã hỗ trợ hoạt động của
các tổ chức Clear Path International, MAG, PeaceTrees
Vietnam, Dự án RENEW, và Vietnam Assistance to the
Handicapped.
Thương vong do mìn/UXO
Hiện không có một cơ
chế toàn diện để thu thập và ghi
nhận thông tin về thương vong do mìn/UXO
gây ra ở Việt Nam. Năm 2002, một bài
báo đưa tin rằng 66 người đã
bị giết và 100 người bị thương
trong các vụ tai nạn bom mìn xảy ra trong
năm.[95]
Tuy nhiên, BOMICO ước tính rằng “trung
bình” 1.110 người đã bị chết
và 1.882 người bị thương mỗi
năm,[96]
song không đưa ra dữ liệu nào để
chứng minh cho con số này. Điều tra riêng
của Landmine Monitor trên báo chí địa
phương ghi nhận được 73 vụ tai nạn
bom mìn, làm chết 67 người và bị
thương 86 người trong năm
2002.[97]
Những con số này mới chỉ là số tai
nạn được đưa tin trên báo
chí, chứ chưa tính những vụ khác
mà các tổ chức phòng chống bom mìn
ở địa phương được biết.
Năm 2001, theo một bài báo được tin, 97
người đã bị giết và 140
người bị thương trong các vụ tai
nạn bom
mìn.[98]
Tổ chức Clear Path International (CPI) ước tính
rằng 85% số vụ tai nạn bom mìn ở
Quảng trị và Thừa Thiên-Huế
được báo cáo, song ở các tỉnh
khác thì ít hơn nhiều, đặc biệt
là những vùng núi xa xôi. CPI đã
xử lý 16 vụ tai nạn chỉ riêng ở
Quảng Trị trong quý đầu năm 2003, 70% ở
các huyện cùng xa Đa Krông và
Hướng
Hóa.[99]
Chỉ 2 trong số 16 vụ đó được
báo chí trong nước đưa tin.
Kết quả điều tra ở Quảng Trị cho
thấy một nửa số nạn nhân bị
thương là trẻ em, trong khi theo điều tra
ở Thừa Thiên Huế trẻ em chiếm tỷ
lệ ít hơn trong số nạn nhân. Dự
án RENEW phát hiện ra rằng nhóm nạn
nhân đông nhất (44%) ở huyện Triệu
Phong, Quảng Trị, là ở độ tuổi 16-30,
và 80% trên tổng số thương vong là nam
giới.[100]
Số liệu về nạn nhân thu được
từ các cuộc điều tra địa
phương công bố trong năm 2002-2003 cho thấy
số vụ tai nạn bom mìn giảm đi rõ
rệt trong thời gian qua. ở tỉnh Quảng Trị,
tỷ lệ giảm tới 45-50% kể từ giữa
thập niên 90. Chính quyền tỉnh đánh
giá tiến bộ này là nhờ bom mìn
trong lòng đất ít đi và ý thức
phòng tránh được nâng
cao.[101]
Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao
tuyên bố không có thương vong trong lực
lượng công binh làm việc trên các
dự án xây dựng đường hay các khu
vực biên giới trong năm 2002,[102]
mặc dù trước đó có tai nạn
được ghi
nhận.[103]
Một chiến sĩ công binh đã bị
thương tại khu vực rà phá của Potsdam
Kommunikation ở Huế
tháng9/2002.[104]
Số liệu mới nhất hiện có trên
cả nước của Bộ Lao động-Thương
binh-Xã hội đề ngày 31/12/2000 ghi nhận
38.849 người bị chết và 65.852 người
bị thương kể từ năm
1975,[105]tăng thêm 601 người chết và 1.788
người bị thương kể từ con số
tháng 5/1998 đã đưa trong các báo
cáo trước của Landmine
Monitor.[106]
Thương vong tiếp tục
được ghi nhận trong năm 2003. Điều tra qua
báo chí của Landmine Monitor ghi nhận 18 vụ tai
nạn bom mìn làm 16 người chết và 26
người bị thương trong quý đầu
năm 2003.
Hỗ trợ nạn nhân
Nạn nhân bom mìn
thường nghèo hơn cả những người
có mức thu nhập trung bình ở những
tỉnh vốn đã nằm dưới mức trung
bình quốc gia. Ví dụ, 60% nạn nhân ở
Quảng Trị có “thẻ nghèo” xác
nhận họ nghèo dưới mức đường
nghèo quốc gia. Gần 1/3 số gia đình
nạn nhân bom mìn sống bằng 5.000 đồng
(0,30 đôla) hoặc ít hơn mỗi ngày,
và 90% sống trong điều kiện nhà ở
tồi tàn. Tỷ lệ thất nghiệp của
nạn nhân bom mìn cao gấp 3,5 lần so với
trước khi bị
thương.[107]
Theo điều tra của UNICEF, 96% nạn nhân ở
Quảng Trị và gia đình họ cho biết
rằng đến nay họ chưa nhận được
sự giúp đỡ nào từ bên ngoài.
4% còn lại nhận được sự trợ
giúp từ các NGOs hoặc Chính phủ,
hoặc từ cả hai. Ưu tiên hàng đầu
đối với 80% người được hỏi
là hỗ trợ về tài chính, dưới
hình thức tài trợhoặc cho vay. Chỉ
có 2% xem phục hồi chức năng, chân tay
giả hay nẹp chỉnh hình là ưu tiên
hàng đầu, mặc dù đó có
thể là nhu cầu thứ
yếu.[108]
ở Việt Nam, các dịch vụ y tế và
chăm sóc sức khỏe do Bộ Y tế cung cấp
ở các tuyến tỉnh, huyện và xã,
còn dịch vụ phục hồi chức năng do
Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội (MOLISA) cung cấp. Không có sự phân
biệt trong điều trị và phục hồi
chức năng cho nạn nhân bom mìn. Trên
thực tế, đa số các NGOs quốc tế
làm việc về vấn đề người
tàn tật không phân biệt nạn nhân bom
mìn với những người tàn tật
khác.[109]
Các cơ quan Việt Nam trợ giúp nạn
nhân bom mìn
Việt Nam có các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe và phục hồi chức năng
thích hợp cho nạn nhân bom mìn. Tuy nhiên,
các nạn nhân vẫn gặp trở ngại
về địa điểm và chi phí để
tiếp cận các dịch vụ này. Phần
lớn các vụ tai nạn bom mìn xảy ra ở
nơi xa trung tâm tỉnh, nơi tập trung các
cơ sở y tế. Đặc biệt, khu vực miền
Trung lại được đáp ứng chưa
đủ.
Điều tra ở huyện Phong Điền phát
hiện rằng 51% số nạn nhân được
chăm sóc y tế ở bệnh viện tỉnh, 33%
tại trung tâm y tế huyện, và 14% tại
các phòng khám xã. 2% còn lại
không được chăm sóc y tế
đúng
nghĩa.[110]
Vị trí ven biển và khoảng cách
đến Huế của huyện Phong Điền là
yếu tố tích cực trong việc tiếp cận
dịch vụ y tế. Nạn nhân ở các
huyện xa xôi hơn khó có thể có
được những kết quả này.
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho nạn
nhân bom mìn có “thẻ nghèo”
hoặc các cựu chiến binh của Quân
đội (Bắc) Việt Nam được cung cấp
miễn phí. Chương trình bảo hiểm y
tế cho người tàn tật chỉ phục vụ
được 1% tổng số người tàn
tật được ước
tính.[111]
Những người khác phải trả phí tuy
là ít theo tiêu chuẩn quốc tế, nhưng
có thể là khoản chi không nhỏ
đối với nạn nhân và gia đình
họ.
Các cơ sở phục hồi chức năng cung
cáp dịch vụ cho người tàn tật,
bất kể nguyên nhân. Khó có thể theo
dõi số liệu thống kê người
được trợ giúp do đa số các
bệnh viện ở Việt Nam không có cơ
sở dữ liệu điện
tử.[112]
Ngoài các cơ sở phục hồi chức
năng y tế, Việt Nam có một mạng
lưới dịch vụ phụchồi chức năng
ngoại tuyến và dựa vào cộng
đồng tại 45 trên 61 tỉnh. Theo Bộ Y tế,
hệ thống này đã tập huấn cho 120
cán bộ chuyên môn cấp trung ương, 550
tập huấn viên và kỹ thuật viên
phục hồi chức năng cấp tỉnh, huyện,
và 10.000 cán bộ và tình nguyện
viên ở cộng đồng. Chiến lược
của Bộ kêu gọi mở rộng các dịch
vụ dựa vào cộng đồng trên toàn
quốc đến năm
2020.[113]
Có 17 trung tâm chính thức cung cấp
chân tay giả và nẹp chỉnh hình trong
cả nước, song không có một trung tâm
nào hoạt động ở 4 tỉnh bị ảnh
hưởng nặng nằm ở khoảng giữa Nghệ
An và Đà
Nẵng.[114]
Hiện tại, nạn nhân bom mìn mới từ
tất cả các tỉnh miền Trung đều
được gửi đến Đà Nẵng,
nơi có cơ sở vật chất được
coi là tốt
nhất.[115]
Một thỏa thuận của tổ chức phi chính
phủ Mỹ Vietnam Assistance for the Handicapped (VNAH) để
mở một phòng khám chân tay giả ở
vùng Cao nguyên Trung bộ nhạy cảm về
chính trị đã được ký kết
trong năm 2002, nhưng sau đó đã bị
bác
bỏ.[116]
Việt Nam sản xuất ước khoảng 20.000
chân tay giả và dụng cụ chỉnh hình
mỗi năm tại hơn 20 trung tâm công và
tư. đa số các dụng cụ này
được làm tại các trung tâm do MOLISA
và các cơ quan trực thuộc cấp tỉnh
hay DOLISAs điều hành. Với 230 kỹ thuật
viên được đào tạo trên cả
nước và mỗi người có thể
sản xuất tới 500 dụng cụ một năm,
năng lực sản xuất là quá
thừa.[117]
Vấn đề chủ yếu là phân phối
và khả năng chi trả.
Trung tâm chân tay giả/nẹp chỉnh hình
tại bệnh viện tỉnh Quảng Trị từng
là một trong những nơi cung cấp chân tay
giả hàng đầu trong nước. Tuy nhiên,
tổ chức Handicap International Bỉ (HIB) đã
kết thúc chương trình vào năm 2001,
và hiện nay xưởng này chỉ còn
sản xuất khảng 3 dụng cụ chỉnh hình
mỗi
tháng.[118]
Tỉnh được Bộ Y tế cấp kinh phí
cho chăm sóc y tế cơ bản , chứ không
có kinh phí cho dụng cụ trợ
giúp.[119]
HIB từ đầu đã lập kế hoạch cho
xưởng này hoạt động độc lập
theo “chế độ phục hồi chi phí”,
bằng cách đó bệnh nhân khá giả
hơn có thể bù chi phí cho bệnh nhân
nghèo như đã làm ở thành phố
Hồ Chí Minh và những nơi khác trong
cả
nước.[120]
Một số NGOs quốc tế khác hiện đang xem
xét khả năng mở lại dịch vụ tại
trung tâm này.
Chân tay giả và dụng cụ chỉnh
hình không được đưa vào các
chương trình y tế quốc gia, song
được cung cấp từ các trung tâm
phục hồi chức năng do quốc tế tài
trợ và trung tâm tư nhân cho những
ngưòi có thể đến được.
Đối với các nạn nhân ở huyện A
Lưới, ủy ban 10-80 tính chi phí đi lại
tới Huế là khoảng 30 đôla và chi
phí phẫu thuật trung bình là 650-950
đôla.[121]
Những người không thể chi trả những chi
phí này hoặc sống cách xa các cơ
sở phục hồi chức năng của nhà
nước hơn nữa không có cách nào
khác hơn là điều trị tại
địa phương và sau đó mua chân tay
giả trên thị trường tư nhân. Giá
tiền hiện nay đối với một chiếc
chân giả kém chất lượng tại biên
giới Trung Quốc là 500.000 đồng (32.50
đôla) cho loại dưới gối và 1.000.000
đồng (65 đôla) cho loại trên
gối.[122]
Dụng cụ tự làm cũng thường gặp
ở những vùng khác trong nước,
đặc biệt xa các trung tâm đô thị.
Hầu hết có chất lượng kém và
không thoải mái cho người sử
dụng.[123]
Các chương trình quốc tế hỗ trợ
nạn nhân bom mìn
ICRC tiếp tục là tổ chức quốc tế
đi đầu trong trợ giúp nạn nhân bom
mìn. Các trung tâm của ICRC ở thành
phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng cung
cấp vật liệu nhựa polypropylene để làm
dụng cụ chỉnh hình trên khắp cả
nước. Ngày 30/12/2002, ICRC, MOLISA và Hội
Chữ thập đỏ Việt Nam (VNRC) đã
ký thỏa thuận ba bên về cung cấp 3.460
chân tay giả trong năm 2003 ở các tỉnh
miền Trung và miền Nam gồm Đà Nẵng,
Cần Thơ, Bình Định, Nghệ An, Thanh
Hóa, Kon Tum và thành phố Hồ Chí Minh.
VNRC được giao trách nhiệm xác
định những người què cụt cần
dịch vụ
này.[124]
Năm 2002, ICRC đã thanh toán chi phí làm
1.900 chân tay giả cho những người tàn
tật ở thành phố Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng và Cần Thơ, và trên 200
dụng cụ ở các địa phương
khác. Tại trung tâm thành phố Hồ
Chí Minh City phục vụ cho 12 tỉnh miền Nam, 1.857
chân tay giả đã được sản
xuất, trong đó 1.125 chiếc không phải cho
nạn nhân bom
mìn.[125]
Tại Đà Nẵng, 544 chân tay giả đã
được sản xuất và tại Cần
Thơ, 519 chân tay giả đã được
làm.[126]
Không có con số dụng cụ được
làm cho nạn nhân bom mìn, mặc dù ICRC
biết có “3-6 người là nạn nhân
bom mìn và không hề được lắp
chân tay giả kể từ năm 1973 do sự hỗ
loạn trongnhững ngày cuối cùng trước
giải
phóng.”[127]
Hai sinh viên của trung tâm thành phố Hồ
Chí Minh đã hoàn thành chương
trình học 3 năm tại Trường đào
tạo về dụng cụ chỉnh hình của MOLISA
tại Hà Nội. Chương trình do Quỹ
đặc biệt dành cho người tàn tật
của ICRC tài
trợ.[128]
Tổ chức Chữ thập đỏ Mỹ (ARC)
tiến hành các dự án về người
tàn tật ở 10 tỉnh cùng với VNRC.
Các dự án này trợ giúp một
số nạn nhân bom mìn, song số liệu cụ
thể không được giữ cho đến nay. ARC
đang lên kế hoạch hỗ trợ kỹ thuật
về lưu giữ số liệu cho VNRC như là
một phần trong chương
trình.[129]
Tổ chức Vietnam Assistance to the Handicapped (VNAH) hỗ
trợ cho 5 trung tâm phục hồi chức năng
ở Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Định, Đà Nẵng và Hà
Tây. VNAH không giữ số liệu về nạn
nhân bom mìn được trợ giúp và
giám đốc tại Việt Nam của VNAH
ước tính rằng có dưới 12 nạn
nhân mới được nhận dịch vụ
chân tay giả trong năm
2002.[130]
Thêm vào đó, VNAH đã tặng 2.500 xe
lăn, xe ba bánh và chân tay giả trị
giá 300.000 đôla cho các cựu chiến binh
tàn tật trên cả nước trong năm 2002.
Kinh phí do Quỹ Freeman của Mỹ tài
trợ.[131]
Tổ chức Clear Path International (CPI) được
phép cử các đội phản ứng nhanh
tới xử lý các tai nạn bom mìn mới
ở 6 tỉnh miền Trung. Các đội này
sẽ điều tra địa điểm tai nạn, thanh
toán hoá đơn y tế và chi phí
phục hồi chức năng nếu cần. Trong năm
2001-2002, CPI đã hỗ trợ về y tế và
xã hội cho 290 nạn nhân và gia đình
của
họ.[132]
Chương trình phòng chống bom mìn và
hỗ trợ nạn nhân toàn diện của CPI
ở thị xã Đông Hà, Quảng Trị
đã hoàn thành tháng 6/2002. Một dự
án tương tự tại huyện Vĩnh Linh
nằm ở phía bắc Khu phi quân sự cũ
hiện đang được tiến hành. Hoạt
động mở rộng gần đây nhất
của CPI là một biên bản thỏa thuận
với tỉnh Quảng Bình, nơi các đội
cứu hộ của CPI sẽ cùng với VNAH phân
phát xe lăn, dụng cụ y tế và thiết
lập một dự án toàn diện ở
huyện Lệ
Thủy.[133]
Tổ chức phi chính phủ Mỹ Kids First hỗ
trợ nạn nhân bom mìn ở Quảng Trị
thông qua chương trình học bổng cho trẻ
em nghèo, trong đó có 100 học sinh khuyết
tật do chiến tranh. Mức hỗ trợ trung bình
là 50 đôla một người một năm. Kids
First còn giúp kinh phí xây dựng
trường tiểu học Song Hiếu tại thị
xã Đồng Hà, trường học đầu
tiên trong cả nước có đầy đủ
điều kiện tiếp cận cho trẻ khuyết
tật. Ngày 1/3/2003 bắt đầu xây dựng
Làng Phục hồi chức năng trị giá 2.268
triệu đôla của Kids First ở Quảng Trị,
nơi sẽ đào tạo thanh thiếu niên
có hoàn cảnh khó khăn và khuyết
tật các kỹ năng kinh doanh, công nghệ
thông tin, tiếp khách, làm đồ gỗ, kim
khí và nông nghiệp. Làng sẽ cộng
tác với các NGOs khác để đáp
ứng nhu cầu về y tế và dạy nghề
của nạn nhân bom mìn và những
người khuyết tật
khác.[134]
Dự án RENEW có phần hỗ trợ nạn
nhân trong chương trình phòng chống bom
mìn của họ ở tỉnh Quảng Trị.
Là một phần trong chương trình, RENEW
tổ chức tập huấn về sơ cứu
đặc thù đối với nạn nhân bom
mìn. RENEW còn làm việc với các
nạn nhân bom mìn trong toàn huyện Triệu
Phong để thiết kế các chương
trình sáng tạo nhằm đưa người
bị nạn trở lại với lao động. Dự
án RENEW đã tập huấn 245 nhân viên y
tế làm công tác cấp cứu và
giúp 50 gia đình nạn nhân bom mìn
bắt đầu sản xuất
nấm.[135]
Tháng 1/2003, tổ chức Landmine Survivors Network (LSN)
đã ký một thỏa thuận hai năm với
ủy ban nhân dân huyện Bố Trạch, Quảng
Bình, về trợ giúp nạn nhân bom mìn
và những người tàn tật khác. LSN
có kế hoạch thu thập thông tin về
tình hình nạn nhân trong huyện và
áp dụng một mô hình đồng
đẳng tự hỗ trợ, được thay
đổi để thích ứng với điều
kiện của Việt
Nam.[136]
Chính sách về người tàn tật
và thực tiễn
Pháp lệnh về người
tàn tật của Chính phủ đã có
hiệu lực kể từ
10/07/1999.[137]
Ngày 22/11/2001, MOLISA đã thành lập một
Ban điều phối Quốc gia về người
tàn tật (NCCD) gồm đại diện của 20
cơ quan Chính phủ, với một ủy ban
thường trực 6 thành
viên.[138]
ở cấp tỉnh và huyện, chính quyền hay
ủy ban nhân dân địa phương có
trách nhiệm quản lý đối với
công tác “chăm sóc và bảo
vệ” người tàn
tật.[139]
Tuy nhiên, vẫn còn những sự thiếu
nhất quán giữa chính sách và thực
tiễn cần được giải quyết. Tổ
chức Lao động Quốc tế ILO báo cáo
rằng trong số 14 mục tiêu do chương
trình Thập kỷ Người tàn tật của
UNESCAP (1993-2002) đặt ra, Việt Nam chỉ đạt
được đầy đủ 2 mục tiêu
và đạt được một phần 4 mục
tiêu
khác.[140]
Ví dụ, bảo hiểm y tế cho người
nghèo là một điều khoản qui định
trong Pháp lệnh về người tàn tật
1998, song vẫn chưa được thực
hiện.[141]
Các quan chức Việt Nam đã tham gia cuộc
họp về hỗ trợ nạn nhân bom mìn
ở Sri Lanka do UNMAS và CARE tài trợ hồi
tháng 3/2003. Các cán bộ của PACCOM, Dự
án RENEW, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, và cục quân y Bộ Quốc phòng
đã đến dự cuộc
họp.[142]
[1]
Phỏng vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Cục
trưởng, Cục Đối ngoại, Bộ Quốc
phòng,
13/05/2003. [2]
Phỏng vấn Đại sứ Nguyễn Quý
Bình, Bộ Ngoại giao,
16/05/2003. [3]
Andrew Wells-Dang, “Việt Nam đề ra những ưu
tiên mới cho sự trợ giúp của các NGO
quốc tế,” Interchange (Xuân 2003).
. [4]
Phỏng vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Cục
trưởng, Cục Đối ngoại, Bộ Quốc
phòng,
13/05/2003. [5]
Vũ Toàn, “Cán bộ kiểm lâm bị
đe doạ tính mạng khi truy bắt bọn săn
trộm,” Viet Nam News,
13/04/2003. [6]
Dịch vụ Vietnam News, “Bom đánh cá nổ
ngay trước mặt những người dân
địa phương,”
19/09/2002. [7]
Đăng Lưu, “Nơi chỉ có những
kẻ ngu ngốc mới chui vào,” Viet Nam News,
25/11/2002. [8]
“Những người dân nghèo địa
phương chọn nghề chết người để
kiếm sống”, Tiền Phong, 24/03/2003, tr.
7. [9]
Dự án RENEW và UNICEF, Điều tra KAP (Hiểu
biết-ý thức-Hành vi), sắp công
bố. [10]
BOMICO, “Tình hình ô nhiễm
bom-mìn-vật nổ còn sót lại sau
chiến tranh” (Situation on the Effects of Landmines, Bombs and
Explosives Remaining After the War), dự thảo báo cáo
do VVAF cung cấp, 2003, tr. 7. Xem thêm Landmine Monitor Report
2002, tr. 778, trong đó có trích con số
ước tính 16.478 triệu mét vuông
đất bị ô
nhiễm. [11]
Đại tá Bùi Minh Tâm, “Cuộc
chiến đấu sau chiến tranh” (The Struggle After the
War), Sự kiện & Nhân chứng (nguyệt san
quân đội), không rõ ngày, tr. 17, 31;
“Hoạt động rà phá bom mìn ở
Việt Nam và những thách thức”, bài
chưa đăng, tháng
2/2002. [12]
David Holdridge như đã trích trong “Việt
Nam, các tổ chức của Mỹ cùng hợp
tác điều tra về bom mìn,” Dịch
vụ Vietnam News,
29/01/2003. [13]
Phỏng vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Cục
trưởng, Cục Đối ngoại, Bộ Quốc
phòng,
13/05/2003. [14]
Phỏng vấn Nguyễn Quang Vinh, Trưởng ban, và
Đại sứ Nguyễn Quý Bình, Phó ban, Ban
Biên giới, Bộ ngoại giao, Hà Nội,
16/05/2003. [15]
Một số vụ tai nạn này cũng đã
được báo chí quốc tế đưa
tin. Ví dụ, “Quả bom thời chiến tranh
Việt Nam làm chết một người ở
Hà Nội”, Associated Press, 21/03/2002; “Ba
người thiệt mạng trong một vụ nổ bom
còn sót lại từ thời chiến tranh ở
Nam Việt Nam,” Deutsche Presse-Agentur,
13/09/2002. [16]
Điều tra riêng của Landmine Monitor phát
hiện phần lớn các vụ tai nạn ở
Phú Yên; An Ninh Thủ Đô (báo), 20/12/2002,
tr. 2, trích Gia
Lai. [17]
Jason Rush, báo cáo “Những thành tích
của Chương trình Bom mìn UNICEF trong năm
2002-3”, 5/2003, tr. 2; ủy ban 10-80, “Kết quả
điều tra về thực trạng và nạn
nhân bom mìn ở A Lưới,” 2001, tr.
34-35. [18]
Bài thuyết trình của Hugh Hosman, Đại
diện, Clear Path International, tại cuộc họp Nhóm
Công tác về bom mìn, Hà Nội,
25/04/2003. [19]
Dự án RENEW và UNICEF, Điều tra KAP (Hiểu
biết-ý thức-Hành vi), sắp công bố;
ủy ban 10-80, “Kết quả điều tra về
thực trạng và nạn nhân bom mìn ở A
Lưới,” 2001, tr.
15-16. [20]
Công An TP. Hồ Chí Minh (báo ngày), 21/12/2002,
tr. 1; Người Lao Động (báo ngày),
16/12/2002, tr.
4. [21]
Jason Rush, báo cáo “Những thành tích
của Chương trình Bom mìn của UNICEF trong
năm 2002-3”, 5/2003, tr.
1. [22]
Công ty Hatfield Consultants và ủy ban 10-80, Xây
dựng phương pháp và kỹ thuật
để hỗ trợ rà phá mìn và
vật liệu chưa nổ ở Việt Nam, 1/2003, tr.
100. [23]
Bài thuyết trình của Hugh Hosman, Đại
diện, Clear Path International, và Nick Proudman, Giám
đốc chương trình, Mines Advisory Group, tại
Nhóm công tác về bom mìn, Hà Nội,
17/01/2003; thông tin từ Vietnam Veterans of America Foundation,
23/05/2003. [24]
Công ty tư vấn Hatfield Consultants và ủy ban
10-80, Xây dựng phương pháp và kỹ
thuật để hỗ trợ rà phá mìn
và vật liệu chưa nổ ở Việt Nam,
1/2003. [25]
Bài thuyết trình của Brendan Cantlon, Giám
đốc chương trình, Australian Volunteers
International, tại Nhóm công tác về bom
mìn, Hà Nội,
25/04/2003. [26]
Phỏng vấn Chuck Searcy, Đại diện, Vietnam Veterans
Memorial Fund, 9/04/2003; Dự án RENEW, “Báo cáo
Điều tra tác động của bom mìn ở
huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị ,”
(dự thảo), tr. 10; phỏng vấn Nguyễn Thị
Vân Anh, Trợ lý, Vietnam Veterans Memorial Fund,
19/05/2003. [27]
Báo cáo tình hình bom mìn 2002, tr.
778-779. [28]
“Việt Nam, một tổ chức cựu chiến binh
Mỹ thỏa thuận điều tra về bom
mìn,” Associated Press,
29/01/2003. [29]
Bài thuyết trình của Guy Rhodes, Giám
đốc chương trình, VVAF, tại Trung tâm
dữ liệu Phi chính phủ, Hà Nội, 28/02/2003;
thông tin từ VVAF,
23/05/2003. [30]
“Bộ Ngoại giao Mỹ tài trợ kinh phí
Điều tra vấn đề mìn và vật
liệu chưa nổ ở Việt Nam,” Thông
cáo báo chí Bộ Ngoại giao,
7/02/2003. [31]
Thông tin từ VVAF,
23/05/2003. [32]
Bài thuyết trình của Guy Rhodes, Giám
đốc chương trình, VVAF, tại Trung tâm
dữ liệu Phi chính phủ, Hà Nội,
28/02/2003. [33]
Xem Báo cáo tình hình bom mìn 2002, tr.
782. [34]
Đại tá Bùi Minh Tâm, “Cuộc
chiến đấu sau chiến tranh” (The Struggle After the
War), Sự kiện & Nhân chứng (nguyệt san
quân đội), không rõ ngày tháng, tr.
17,
31. [35]
Phỏng vấn Chuck Searcy, Đại diện, Vietnam Veterans
Memorial Fund,
9/04/2003. [36]
Phỏng vấn Hoàng Đăng Mai, Trưởng
phòng, Phòng Đối ngoại tỉnh Quảng
Trị,
17/04/2003. [37]
Họp Nhóm công tác về bom mìn, Hà
Nội, 25/01/2003; phỏng vấn tại Quảng Trị
và Quảng Bình,
4/2003. [38]
Phỏng vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Cục
trưởng, Cục Đối ngoại, Bộ Quốc
phòng,
13/05/2003. [39]
Thông tin từ Vietnam Veterans of America Foundation,
23/05/2003. [40]
Phỏng vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Cục
trưởng, Cục Đối ngoại, Bộ Quốc
phòng, 13/05/2003. Giám đốc BOMICO cho số
liệu hơi khác một chút, xê dịch
từ 12-60 triệu đồng một hécta. Khoảng
15.400 đồng tương đương 1 đôla
Mỹ. [41]
Đại tá Bùi Minh tâm, Giám đốc
BOMICO, Báo cáo tóm tắt “Các hoạt
động rà phá bom mìn ở Việt Nam
và những thách thức”, chỉnh sửa
tháng
2/2002. [42]
Phỏng vấn Nguyễn Quang Vinh, Trưởng ban, và
Đại sứ Nguyễn Quý Bình, Phó ban
Biên giới, Bộ Ngoại giao, Hà Nội,
16/05/2003. [43]
“Đoàn công tác biên giới của
Bộ [Ngoại giao] tìm hiểu và làm
việc tại các tỉnh Lai Châu và Lạng
Sơn,” Quốc Tế (tuần báo),
24-30/04/2003. [44]
Phỏng vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Cục
trưởng, Cục Đối ngoại, Bộ Quốc
phòng, 13/05/2003; thông tin từ Vietnam Veterans of America
Foundation,
23/05/2003. [45]
Nhật báo Tuổi Trẻ (Youth), 23/04/2002, tr. 2;
Quân Đội Nhân Dân (nhật báo),
23/04/2002, tr. 4; “ấn tượng Đường
Hồ Chí Minh hôm nay” (Impressions of the Ho Chi Minh
Highway Today), Công An Nhân Dân (nhật báo),
31/10/2002. [46]
Phỏng vấn Hoàng Đăng Mai, Trưởng
phòng, Phòng Đối ngoại tỉnh Quảng
Trị,
17/04/2003. [47]
Thông tin từ VVAF,
23/05/2003. [48]
Phỏng vấn Trần Khánh Phôi, Điều
phối viên Phòng Đối ngoại Quảng
trị đối với các dự án của MAG
tại Quảng Trị, Mines Advisory Group, Quảng Trị,
18/04/2003. [49]
Số liệu thống kê tỉnh do Hoàng Nam,
Điều phối viên Dự án RENEW, trích
dẫn, Quảng Trị,
17/04/2003. [50]
Thông tin từ Lutz Vogt, Chủ tịch, Potsdam Kommunikation,
25/06/2003; Công ty tư vấn Hatfield Consultants và
ủy ban 10-80, Xây dựng phương pháp và
kỹ thuật hỗ trợ rà phá mìn
và vật liệu chưa nổ ở Việt Nam,
1/2003, tr.
111-113. [51]
Thư điện tử gửi Landmine Monitor (HRW) từ Tim
Carstairs, Giám đốc phụ trách chính
sách, MAG, 22/07/2003; Phỏng vấn Trần Khánh
Phôi, MAG, Quảng Trị,
18/04/2003. [52]
Thông tin từ Ilona Schleicher, Giám đốc dự
án SODI, Berlin, 23/05/2003. Trong thư gửi Vietnam Veterans of
America Foundation tháng 10/2002, GERBERA làm rõ rằng
tổ chức này không thực hiện công
việc rà phá hay tự ký hợp đồng
phụ ở Việt Nam, mà chỉ hỗ trợ
kỹ thuật cho SODI và PK. Đây là
điểm cần sửa trong Báo cáo tình
hình bom mìn 2002, tr.
781. [53]
“Chính phủ Đức giúp một tỉnh
miền Trung rà phá bom mìn,” Dịch vụ
Vietnam News,
8/05/2002. [54]
Thư điện tử từ Lutz Vogt, Chủ tịch,
Postdam Kommunikation, 25/06/2003. PK có đội ngũ
nhân viên 44
người. [55]
Phỏng vấn Karl Heinz Werther, Giám đốc dự
án, SODI, Quảng Trị, 17/04/2003; thông tin từ
Lutz Vogt, Chủ tịch, Potsdam Kommunikation,
21/05/2003. [56]
“Rà phá bom mìn mở đường cho
tái định cư,” Dịch vụ Vietnam News,
5/08/2002; Sách giới thiệu của Nhóm công
tác về bom mìn, 1/2003, tr. 8; thông tin từ Hugh
Hosman, Giám đốc tại Việt Nam của CPI,
7/05/2003. [57]
Thông tin từ Chuck Meadows, Giám đốc
điều hành, PeaceTrees Vietnam,
8/05/2003. [58]
“Một tổ chức của Mỹ đem hòa
bình đến với mảnh đất bị
chiến tranh tàn phá,” Dịch vụ Vietnam
News,
24/09/2002. [59]
Sách giới thiệu của Nhóm công tác
về bom mìn, 1/2003, tr. 12-13; phỏng vấn Mick Raine,
Cố vấn kỹ thuật, MAG, Quảng Bình,
21/04/2003. [60]
Sách giới thiệu của Nhóm công tác
về bom mìn, 1/2003, tr. 11; phỏng vấn Karl Heinz
Werther, Giám đốc dự án, SODI/GERBERA,
Quảng Trị,
17/04/2003. [61]
Thông tin từ Lutz Vogt, Chủ tịch, Potsdam Kommunikation,
21/05/2003. [62]
Sách giới thiệu của Nhóm công tác
về bom mìn, 1/2003; Nhóm công tác về bom
mìn, Hà Nội,
25/04/2003. [63]
Sách giới thiệu của Nhóm công tác
về bom mìn, 1/2003, tr.
11. [64]
Tiền Phong (nhật báo), 7/01/2003, tr.
2. [65]
Dịch vụ Vietnam News, “Một tổ chức của
Mỹ đem hòa bình đến với mảnh
đất bị chiến tranh tàn phá,”
24/09/2002. [66]
Người Lao Động (nhật báo), 18/03/2003, tr. 3;
“Dự án rà phá bom mìn giải
phóng đất đai cho phát triển,”
Dịch vụ Vietnam News,
24/06/2002. [67]
Thông tin từ Trần Văn Thông, Điều
phối dự án, Plan International,
28/04/2003. [68]
“Chính phủ Đức giúp một tỉnh
miền Trung rà phá bom mìn,” Dịch vụ
Vietnam News, 8/05/2002; Thông tin từ Lutz Vogt, Chủ
tịch, Potsdam Kommunikation,
21/05/2003. [69]
Phỏng vấn ông Trần Văn Thanh, Giám
đốc, Sở Y tế Quảng Trị,
18/04/2003. [70]
Bài trình bày của Bs. Trần Ngọc Lan,
Vụ Y tế dự phòng, Bộ Y tế, tại
Diễn đàn Tri thức của Ngân hàng
Thế giới, Hà Nội,
15/05/2003. [71]
“Những đứa trẻ chưa hề biết
chiến tranh vẫn phải chịu đau khổ,”
Dịch vụ Vietnam News,
19/06/2002. [72]
Phỏng vấn Jason Rush, Điều phối viên dự
án bom mìn, UNICEF, 8/05/2003; Jason Rush, báo cáo
“Những thành tích của Chương
trình bom mìn UNICEF trong năm 2002-3,”, 5/2003, tr.
4-5. [73]
Phỏng vấn Hoàng Nam, Điều phối viên,
Dự án RENEW, Quảng Trị, 17/04/2003; phỏng
vấn Nguyễn Thị Vân Anh, Trợ lý, Vietnam
Veterans Memorial Fund,
19/05/2003. [74]
Thông tin từ Nguyễn Thị Lê Khanh, Cán
bộ dự án, Catholic Relief Services, 12 và
13/05/2003. [75]
Sách giới thiệu của Nhóm công tác
về bom mìn, 1/2003, tr. 16-17; thông tin từ Chuck
Meadows, Giám đốc điều hành PeaceTrees
Vietnam,
12/05/2003. [76]
Phỏng vấn Karl Heinz Werther, Giám đốc dự
án, SODI/GERBERA, Quảng Trị,
17/04/2003. [77]
Thông tin từ Lutz Vogt, Chủ tịch, Potsdam Kommunikation,
21/05/2003. [78]
Sách giới thiệu của Nhóm công tác
về bom mìn, 1/2003, tr. 27; Thông tin cập nhật
về VNAH và HealthEd, Thu
2002. [79]
Dự án RENEW và UNICEF, Điều tra KAP (Hiểu
biết-ý thức-Hành vi), sắp công
bố. [80]
Dự án RENEW, “Báo cáo Điều tra
tác động của bom mìn ở huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị,” (dự
thảo), tr. 41; Jason Rush, “báo cáo “Những
thành tích của Chương trình bom mìn
UNICEF trong năm 2002-3,”, 5/2003, tr.
2-3. [81]
Bài trình bày của Anat Prag, Giám
đốc chương trình giáo dục của
CRS, tại Nhóm công tác về bom mìn,
Hà Nội, 17/01/2003; baid trình bày của CRS
tại Ngày Sáng tạo Việt Nam, Hà Nội,
14/05/2003. [82]
Jason Rush, báo cáo “Những thành tích
của Chương trình bom mìn UNICEF trong năm
2002-3,”, 5/2003, tr.
2. [83]
Phỏng vấn Hoàng Đăng Mai, Trưởng
phòng Đối ngoại tỉnh Quảng Trị,
17/04/2003. [84]
Đại tá Bùi Minh Tâm, Giám đốc
BOMICO, “Các hoạt động rà phá bom
mìn ở Việt Nam và những thách
thức” (báo cáo tóm tắt, chỉnh
sửa tháng
2/2002). [85]
Như trên. Tính toán này dựa trên 8%
diện tích đất đai của Việt Nam bị
ô nhiễm (=26.500 km vuông) và chi phí rà
phá trên một hécta theo đơn giá
qủa quân
đội. [86]
Bộ Ngoại giao Mỹ, “Bước đi trên
mặt đất bình yên,” tháng
9/2002. [87]
Thông cáo báo chí của Đại sứ
quán Mỹ, “Chương trình rà phá
bom mìn nhân đạo của Mỹ tài trợ
máy dò mìn cho Quân đội Nhân
dân Việt Nam,”
8/10/2002. [88]
Thông tin từ Maj. Robb Etnyre, Văn phòng Tuỳ
viên quân sự Mỹ,
5/05/2003. [89]
Nhân Dân (nhật báo), 1/11/2002, tr. 8; Tin Tức
(News), 1/11/2002, tr.
2. [90]
Tuổi Trẻ (nhật báo), 23/04/2002, tr. 2; Quân
Đội Nhân Dân (nhật báo), 23/04/2002, tr.
4. [91]
“úc giúp người dân địa
phương thoát khỏi hậu quả chiến
tranh,” Lao Động (nhật báo), 10/12/2002, tr. 7;
Người Lao Động (nhật báo), 9/12/2002, tr.
4. [92]
Xem báo cáo quốc gia của
Đức. [93]
Sách giới thiệu của Nhóm công tác
về bom mìn,
1/2003. [94]
Như
trên. [95]
An Ninh Thủ Đô (nhật báo), 20/12/2002, tr.
2. [96]
BOMICO, “Tình hình ô nhiễm
bom-mìn-vật nổ còn sót lại sau
chiến tranh” (Situation on the Effects of Landmines, Bombs and
Explosives Remaining After the War), dự thảo báo cáo
do VVAF cung cấp, 2003, tr.
7. [97]
Chi tiết đầy đủ về các bài
báo hiện có ở Landmine Monitor. Trong nhiều
trường hợp, các bài báo thường
viết không rõ ràng về nguyên nhân
chính xác của vụ việc, thường
chỉ nói là “tai nạn”, và loại
vật nổ thường là “bom”.
[98]
Đại Đoàn Kết Cuối Tuần (Great
Solidarity Weekend Edition), 27/01/2002, tr.
3. [99]
Bài trình bày của Hugh Hosman, Đại
diện, Clear Path International, tại Nhóm Công
tác về bom mìn, Hà Nội,
25/04/2003. [100]
Dự án RENEW, “Báo cáo Điều tra
tác động của bom mìn ở huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị,” (dự
thảo), tr. 29,
32. [101]
Phỏng vấn Hoàng Đăng Mai, Trưởng
phòng Đối ngoại tỉnh Quảng Trị,
17/04/2003. [102]
Phỏng vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Cục
trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Quốc
phòng, 13/05/2003; Phỏng vấn Nguyễn Quang Vinh,
Trưởng ban, và Đại sứ Nguyễn Quý
Bình, Phó ban Biên giới, Bộ Ngoại giao,
Hà Nội,
16/05/2003. [103]
Xem Báo cáo tình hình bom mìn 2002, tr.
785. [104]
Được báo cáo tại Nhóm Công
tác về bom mìn, Hà Nội,
25/04/2003. [105]
BOMICO, “Tình hình ô nhiễm
bom-mìn-vật nổ còn sót lại sau
chiến tranh” (Situation on the Effects of Landmines, Bombs and
Explosives Remaining After the War), dự thảo báo cáo
do VVAF cung cấp, 2003, tr.
7. [106]
Xem Báo cáo tình hình bom mìn 2001, tr.
589. [107]
Bài trình bày của Chuck Searcy, Đại
diện, Vietnam Veterans Memorial Fund, tại Nhóm Công
tác về bom mìn, Hà Nội, 17/01/2003; và
Jason Rush, báo cáo “Những thành tích
của Chương trình bom mìn UNICEF trong năm
2002-3,”, 5/2003, tr.
4. [108]
Dự án RENEW, “Báo cáo Điều tra
tác động của bom mìn ở huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị,” (dự
thảo), tr.
37-38. [109]
Xem Báo cáo tình hình bom mìn 2002, tr.
785. [110]
Số liệu từ cuộc điều tra ở huyện
Phong Điền được cung cấp cho Landmine Monitor,
13/05/2003. [111]
“Việt Nam nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người khuyết tật,” Viet Nam News,
18/04/2003. [112]
Phỏng vấn Wilfried Raab, Giám đốc, VIETCOT,
Hà Nội,
16/05/2003. [113]
Bộ Y tế, “Báo cáo từ Hội thảo
quốc gia về hỗ trợ nạn nhân,”
25-26/09/2001, tr.
7-17. [114]
Hội thảo về dụng cụ chỉnh hình
tại Bệnh viện đa khoa Huế do một NGO
Pháp có liên quan đến Proteor hỗ trợ,
và hội thảo tại Bệnh viện đa khoa
Quảng Trị sản xuất một số lượng
nhỏ dụng cụ chỉnh hình. Thư điện
tử từ Patrick Le Folcalvez, Giám đốc
chương trình, HIB Vietnam,
10/07/2003. [115]
Phỏng vấn Hugh Hosman, Đại diện, Clear Path
International, Quảng Trị,
17/04/2003. [116]
Phỏng vấn Larry Wolfe, Giám đốc tại
Việt Nam, Health Volunteers Overseas, Hà Nội, 8/05/2003;
và thư điện tử từ Bùi Văn
Toàn, Giám đốc tại Việt Nam, VNAH,
27/05/2003. [117]
Phỏng vấn Wilfried Raab, Giám đốc, VIETCOT,
Hà Nội,
16/05/2003. [118]
Thư điện tử từ Patrick Le Folcalvez, Giám
đốc chương trình, HIB Vietnam,
10/07/2003. [119]
Phỏng vấn Trần Văn Thanh, Giám đốc,
Sở Y tế Quảng Trị,
18/04/2003. [120]
Thư điện tử từ Patrick Le Folcalvez, Giám
đốc chương trình, HIB Vietnam,
25/04/2003. [121]
ủy ban 10-80, “Kết quả Điều tra
tìnhhình và nạn nhân bom mìn ở
huyện A Lưới,” 2001, tr.
37-8. [122]
Phỏng vấn Nguyễn Thu Thảo, Cán bộ
chương trình, VVAF,
16/05/2003. [123]
Phỏng vấn Jason Rush, Điều phối viên dự
án bom mìn, UNICEF,
20/05/2003. [124]
ICRC, “Chương trình nẹp chỉnh hình,
hợp tác ba bên MOLISA-VNRC-ICRC ở Việt Nam”
(báo cáo tóm tắt, tháng 2/2003), tr.
2. [125]
Thư điện tử từ Peter Poetsma, Đại
diện ICRC, thành phố Hồ Chí Minh,
2/05/2003. [126]
Quỹ đặc biệt dành cho người tàn
tật của ICRC, “Báo cáo thường
niên 2002,” tr.
8. [127]
Thư điện tử từ Peter Poetsma, ICRC,
2/05/2003. [128]
Quỹ đặc biệt dành cho người tàn
tật của ICRC, “Báo cáo thường
niên 2002,” tr.
8. [129]
Bài trình bày của Nguyễn Minh Hương,
Hội Chữ thập đỏ Mỹ, tại Nhóm
Công tác về bom mìn, Hà Nội,
25/04/2003. [130]
Thư điện tử từ Bùi Văn Toàn,
Giám đốc tại Việt Nam, VNAH,
27/05/2003. [131]
Dịch vụ Vietnam News, 25/03/2003, tr. 3; Lao Động
(Labor), 24/03/2003, tr. 3; và Thông tin cập nhật
về VNAH và HealthEd, Thu
2002. [132]
Bài trình bày của Hugh Hosman, Đại
diện, Clear Path International, tại Tổ chức Lao
động Quốc tế, Nghiên cứu Việt Nam,
17/01/2003.
[133]
Phỏng vấn Hugh Hosman, Đại diện, Clear Path
International, Quảng Trị,
17/04/2003. [134]
Hoài Nam, “Làng ưu tiên hàng
đầu cho trẻ khuyết tật,” Viet Nam News,
5/03/2003. [135]
Phỏng vấn Hoàng Nam, Điều phối viên,
Dự án RENEW, Quảng Trị, 17/04/2003; xem thêm
Báo cáo tình hình bom mìn 2002, tr.
785. [136]
Phỏng vấn Michelle Hecker và Joelle Caschera, LSN,
Quảng Bình,
21/04/2003. [137]
Xem Báo cáo tình hình bom mìn 2001, tr. 591,
để biết thêm chi
tiết. [138]
Báo cáo tình hình bom mìn 2002, tr. 787;
và Tổ chức Lao động Quốc tế,
Nghiên cứu Việt Nam, tr.
30-1. [139]
Điều 16 của Nghị định thi hành số
55/1999/ND-CP
(10/07/1999). [140]
Tổ chức Lao động Quốc tế, Nghiên
cứu Việt Nam, tr.
49-52. [141]
Phỏng vấn Trần Văn Thanh, Giám đốc,
Sở Y tế Quảng Trị,
18/04/2003. [142]
Bài trình bày của Đặng Hoàng Linh,
PACCOM, tại cuộc họp Nhóm Công tác
về bom mìn, Hà Nội, 25/04/2003; phỏng vấn
Dương Trọng Huế, Dự án RENEW, Quảng
Trị, 17/04/2003.