Những diễn biến chính kể từ
tháng 5/2003: Một cuộc khảo sát cấp
quốc gia về tác động của bom mìn
đã ðược triển khai vào tháng
2/2004. Sáu (06) tổ chức quốc tế ðã
rà phá ðược 2,77 triệu m2 ðất
trong nãm 2003. Quân ðội và các
ðõn vị vũ trang khác tiếp tục tham gia
nỗ lực rà phá bom mìn. Chín (09)
tổ chức quốc tế đã tiến hành
các hoạt ðộng giáo dục về nguy
cõ bom mìn trong nãm 2003, ðưa thông tin
ðến ðược với hõn 22.900
người. Việt Nam ðã tham dự Cuộc
gặp lần thứ nãm của các quốc gia
thành viên, tổ chức vào tháng 9/2003
tại Bãng-cốc. Việt Nam cũng ðã tham
dự Hội thảo về Công nghệ và Hợp
tác trong lĩnh vực rà phá bom mìn
nhân đạo trong tháng 4/2003 tại Côn Minh,
Trung Quốc.
Những diễn biến chính kể từ 1999:
Một cuộc khảo sát cấp quốc gia về
tác động của bom mìn đã
ðược triển khai vào tháng 2/2004 sau
hõn ba nãm ðàm phán. Các hoạt
ðộng khảo sát, rà phá, giáo
dục về nguy cõ và hỗ trợ nạn
nhân bom mìn của các tổ chức phi
chính phủ (PCP) đã ðược mở
rộng trong thời gian này, bao gồm thêm hai
ðịa phưõng nữa. Chính phủ
đã tiến hành hoạt ðộng rà
phá trên diện rộng, ðặc biệt là
trong dự án xây dựng ðường Hồ
Chí Minh mới. Việt Nam công bố rằng
từ nãm 1975 ðến nãm 2002, quân ðội
ðã rà phá 1.200 triệu m2 đất,
phá hủy 4 triệu quả mìn và 8 triệu
vật liệu chưa nổ (VLCN). Kể từ năm
1998, 7 tổ chức PCP đã phối hợp rà
phá 12 triệu m2 ðất bị ảnh hưởng
nặng nề bởi bom mìn. Chính phủ
đã hỗ trợ mở rộng chưõng
trình Phục hồi chức nãng dựa vào
cộng ðồng từ 40 lên 46 trong số 61 tỉnh,
thành phố tính ðến cuối nãm 2003.
Năm 2001, Chính phủ đã thành lập Ban
ðiều phối quốc gia về người tàn
tật. Các nhà tài trợ ðã cung
cấp ước tính khoảng 35 triệu
ðô-la cho các hoạt ðộng phòng
chống bom mìn ở Việt Nam. Việt Nam khẳng
định vẫn tiếp tục sản xuất mìn
sát thưõng. Các quan chức Chính
phủ tuyên bố rằng Việt Nam hiện nay
và sẽ không bao giờ xuất khẩu mìn.
Trong khoảng từ nãm 1975 ðến nãm 2000,
Việt Nam ghi nhận ðược 104.701 trường
hợp thưõng vong do bom mìn (38.849 người
chết và 65.852 người bị thưõng).
Con số ước tính về tỷ lệ
thưõng vong do bom mìn hiện nay ở vào
khoảng 1.200 và 2.992 người bị chết
và bị thưõng mỗi nãm.
Chính sách cấm mìn
Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chưa tham gia Hiệp ước
Cấm Mìn. Bộ Quốc phòng vẫn giữ
nguyên ư kiến cho rằng còn cần mìn
cho các mục đích quốc phòng. Việt
Nam lần nào cũng bỏ phiếu trắng cho
nghị quyết ủng hộ việc cấm mìn
của Ðại hội ðồng Liên hợp quốc
kể từ nãm 1996, trong ðó có Nghị
quyết 58/53 ra ngày 8/12/2003.
Việt Nam đã tham dự một số cuộc
họp chuẩn bị cho Công ước Ốt-ta-oa
với tư cách quan sát viên, song không
tham gia ðàm phán. Việt Nam ðã cử
đại diện đến tham dự Hội nghị
kư kết hiệp ước tại Ốt-ta-oa,
Ca-na-ða hồi tháng 12/1997. Ðại diện
phía Việt Nam ðã tuyên bố như sau:
“Việt Nam hoan nghênh nỗ lực của
Chính phủ Ca-na-ða và chính phủ các
nước, Liên ðoàn các hội Chữ
thập ðỏ và Trãng lưỡi liềm
ðỏ quốc tế, Phong trào Quốc tế về
Cấm Mìn và các tổ chức PCP khác
trong việc ðạt ðược một hiệp
ước quốc tế toàn diện về cấm
mìn sát thưõng. Việt Nam vẫn
chưa tham gia Hiệp ước vì lư do
bảo vệ lãnh thổ.... Là nạn nhân
của chiến tranh, trong đó có bom mìn,
Việt Nam tin tưởng rằng các nước
khác sẽ hiểu và chia sẻ quan ðiểm
của Việt
Nam”.[1]
Tiếp sau đó, đã có dấu hiệu
tan bãng trong chính sách và thái
ðộ của Việt Nam ðối với vấn
ðề bom mìn, đến mức một quan chức
Chính phủ đã phát biểu tại một
diễn ðàn quốc tế vào ðầu
nãm rằng việc Việt Nam tham gia Hiệp
ước chỉ “là vấn ðề thời
gian, chứ không phải là vấn ðề mang
tính nguyên
tắc”.[2] Một
tài liệu nội bộ số ra tháng 3/2000
của Bộ Ngoại giao ðược cung cấp cho
Landmine Monitor có nêu rằng Việt Nam coi Hiệp
ước Cấm Mìn là “một nỗ
lực quan trọng nhằm ngăn chặn việc sử
dụng mìn.... [Việt Nam] ủng hộ việc
hạn chế sử dụng mìn sát
thưõng và lên án việc sử
dụng mìn bừa bãi ðể tàn sát
dân thường.... [Tuy nhiên, Hiệp ước]
chưa xem xét ðầy ðủ nhu cầu về an
ninh và quốc phòng của các nước
khác nhau.”[3] Tại
một cuộc hội thảo cấp khu vực về bom
mìn tổ chức vào tháng 5/2002, ðại
diện Việt Nam tuyên bố: “Chúng tôi
hiện ðang nghiêm túc xem xét Công
ước
Ốt-ta-oa.”[4] Việt
Nam đã tham dự các cuộc họp liên
kỳ ðầu tiên về Hiệp ước Cấm
mìn vào tháng 9/1999, tuy nhiên từ
ðó về sau không tham dự thêm cuộc
họp nào. Việt Nam ðã dự Cuộc
gặp lần thứ hai của các quốc gia
thành viên tổ chức tháng 9/2000 với
tư cách quan sát viên, tham gia hội thảo
khu vực về tiêu huỷ mìn tàng trữ
tổ chức tại Ma-lai-xia tháng 8/2001 và hội
thảo khu vực về bom mìn do Thái Lan tổ
chức từ 13–15/05/2002.
Việt Nam cũng đã tham dự Cuộc gặp
lần thứ nãm của các quốc gia thành
viên vào tháng 9/2003 tại Băng-cốc.
Tại cuộc gặp, đại diện Việt Nam cho
Landmine Monitor biết: “Việt Nam phản đối
việc sử dụng mìn bừa bãi ðể
ðối phó với thường dân vô
tội. Chúng tôi chia sẻ những mối quan
tâm mang tính nhân ðạo ðối với
nạn nhân bom mìn, chúng tôi ủng hộ
nỗ lực quốc tế nhằm hỗ trợ hoạt
động phòng chống bom mìn, trợ giúp
nạn nhân, và giúp các quốc gia khắc
phục hậu quả để phát triển kinh
tế-xã
hội.”[5] Các quan
chức Chính phủ Việt Nam đã tham dự
Hội thảo về Công nghệ và Hợp
tác trong lĩnh vực rà phá bom mìn
nhân đạo tổ chức vào tháng 4/2004
tại Côn Minh, Trung Quốc. Ðại diện của
Trung tâm Công nghệ xử lư bom mìn
thuộc Bộ Quốc phòng (BOMICO) đã có
bài trình bày về hoạt ðộng rà
phá bom mìn, còn một quan chức của
Bộ Ngoại giao thì phát biểu về kinh
nghiệm của Việt Nam trong hợp tác quốc
tế. Ðại diện Dự án RENEW Quảng
Trị cũng có bài thuyết
trình.[6]
Một quan chức Bộ Ngoại giao nhận xét
rằng với việc quan hệ với Mỹ
ðược cải thiện, mà cụ thể
là việc triển khai cuộc Khảo sát về
Tác ðộng của bom mìn do Bộ Ngoại giao
Mỹ tài trợ, “cánh cửa nay đã
rộng mở” cho sự hỗ trợ quốc tế
trong mọi lĩnh vực của hoạt động
phòng chống bom
mìn.[7]
Việt Nam đã kư Công ước về
Vũ khí thông thường nãm 1981, song
vẫn chưa phê chuẩn hoặc tham gia bất
kỳ cuộc họp mới ðây nào về
Công ước này.
Sản xuất, Chuyển nhượng, Tàng trữ
và Sử dụng
Năm 2000, một quan chức Bộ Quốc phòng
đã cho Landmine Monitor hay rằng Việt nam vẫn
tiếp tục sản xuất mìn sát
thưõng.[8] Loại
mìn duy nhất mà Việt Nam sản xuất trong
những nãm ’90 là “mìn táo”,
ðược tái chế từ loại bom bi BLU-24 do
Mỹ thả trong thời gian chiến
tranh.[9]
Trước ðây, Việt Nam có sản
xuất các loại mìn nhái kiểu mìn
của Mỹ, Trung Quốc và Liên
Xô.[10] Tại triển
lãm Expo 2000 ở Hà nội, Viện Công
nghệ quân sự đã liệt kê một
số loại mìn dễ cài đặt trong danh
mục 10 dự án nghiên cứu hàng ðầu
của Viện.[11]
Việt Nam hiện vẫn theo duy trì chính
sách cấm xuất khẩu mìn sát
thưõng. Tháng 12/1997, tại hội nghị
kư kết Hiệp ước Cấm Mìn, một
quan chức Việt Nam đã tuyên bố:
“Việt Nam không xuất khẩu mìn sát
thưõng.”[12]
Năm 2001, trong công văn gửi Landmine Monitor, Bộ
Ngoại giao Việt Nam đã viết rằng
“Việt Nam chưa từng và sẽ không bao
giờ xuất khẩu
mìn.”[13] Mặc
dù phủ nhận việc xuất khẩu mìn trong
quá khứ, song dường như Việt Nam
ðã từng cung cấp mìn sát
thưõng cho Cam-pu-chia cho đến tận đầu
những năm ’90.[14]
An-gô-la liệt kê loại mìn mảnh kư
hiệu NOMZ-2B có nguồn gốc từ Việt Nam trong
danh mục các loại mìn tìm thấy ở
nước này ðính kèm theo báo
cáo về các biện pháp minh bạch
ðược ðệ trình trong năm
2004.[15] Số mìn
này có lẽ đã ðược xuất
khẩu trong thời kỳ nội chiến ở
An-gô-la vào những nãm ’80 hoặc
ðầu những nãm ’90. Có một số
báo cáo về việc buôn lậu chất
nổ còn lại từ thời chiến tranh, kể
cả mìn.[16]
Một quan chức Bộ Quốc phòng khẳng
ðịnh có việc tàng trữ mìn sát
thưõng trong một cuộc phỏng vấn hồi
tháng 5/2003, song không cho biết chi tiết về quy
mô hay thành phần ngoài việc tuyên
bố “Việt Nam không cất giữ một
lượng mìn lớn, song chúng tôi có
ðủ ðể bảo vệ ðất nước
chống ngoại
xâm.”[17]
Năm 2000, một quan chức của BOMICO cho biết
Bộ Quốc phòng ðang tiến hành tiêu
huỷ “hàng nghìn” quả mìn
không ðảm bảo an toàn còn lại từ
trước nãm
1975.[18]
Không có báo cáo nào về việc
sử dụng mìn sát thưõng trong thời
gian gần ðây của các lực lượng
vũ trang Việt Nam. Lần cuối cùng quân
ðội cài ðặt một số lượng
mìn ðáng kể là trong thời gian chiến
tranh biên giới với Cam-pu-chia và Trung Quốc
vào cuối những nãm ’70 và trong
thời gian Việt Nam ðóng quân ở Cam-pu-chia
từ nãm 1979 ðến 1990.
Có một số báo cáo về việc
những người sãn bắt thú, ðánh
cá, buôn lậu và buôn bán sắt
thép phế liệu sử dụng các loại
vật liệu nổ và mìn tự
chế.[19]
Vấn đề Mìn và Vật liệu chưa
nổ
Việt Nam hiện bị ảnh hưởng bởi
một lượng VLCN lớn còn lại từ
cuộc chiến diễn ra trong những nãm ’60
và ðầu những nãm ’70, và một
lượng bom mìn nhỏ hõn do các cuọc
xung ðột khác ðể lại. Các bãi
mìn tồn tại từ thời chiến dịch
Ðiện Biên Phủ chống thực dân Pháp
nãm 1954, kéo dài cho ðến hết các
cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc
và Khmer Ðỏ trong những nãm ’70. BOMICO
hiện cho rằng có tới 20% bề mặt của
Việt Nam, tổng cộng 66.578 triệu m2, chịu
ảnh hưởng của mìn và
VLCN.[20] Con số này
tãng lên nhiều so với con số 7-8% mà
BOMICO ước tính trước ðó.
Không có lư do nào ðược
ðưa ra ðể giải thích cho sự thay
ðổi ðó. Quỹ Cựu chiến binh Mỹ
tại Việt nam (VVAF) đã trích dẫn
nguồn tin của Bộ Quốc phòng nói rằng
“3 triệu quả mìn vẫn còn nằm trong
lòng ðất Việt Nam”, chưa kể
VLCN.[21] Các nguồn
tin chính thức trích dẫn con số dao
động từ 350.000-800.000 tấn vật liệu nổ
từ thời chiến tranh còn nằm trong lòng
đất.[22] Toàn
bộ 61 tỉnh, thành phố ðều bị ảnh
hưởng, ðặc biệt là khu vực miền
Trung và miền Nam, dù vậy, hiện chỉ
có các chưõng trình phòng chống
bom mìn lớn ðược thực hiện ở 3
tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất
là Quảng Trị, Quảng Bình và Thừa
Thiên-Huế.
Quy mô của vấn đề bom mìn không
nghiêm trọng lắm vào cuối những nãm
’70 và ðầu những nãm ’80, ngay sau khi
chiến tranh kết thúc. Tuy nhiên, theo báo
cáo các loại vật liệu nổ ðã
ðược tìm thấy ở 41 trên tổng
số 61 tỉnh, thành phố trong năm
2003.[23] Bộ Quốc
phòng cho biết những phần bị ảnh
hưởng nặng nhất của Việt Nam là
các tỉnh miền Trung từ Khu Phi quân sự
cũ trở xuống phía Nam, bao gồm Quảng
Trị, Quảng Nam và Quảng
Ngãi.[24] Hồ sõ
lịch sử về các hoạt ðộng chiến
tranh của Mỹ hiện ðược BOMICO lưu
giữ, do Cõ quan Hợp tác an ninh quốc
phòng Mỹ cung cấp, cho phép xếp thứ
tự các ðịa phưõng theo tổng số
vật liệu ðã ðược ném xuống,
mà chủ yếu là các loại bom và bom
bi. [25] Các loại VLCN
thường gặp nhất là bom bi BLU-26/36 và
lựu ðạn M79 40mm, hai loại vật liệu là
thủ phạm gây ra 65% số thưõng vong
kể từ 1975.[26] Ban
Biên giới thuộc Bộ Ngoại giao khẳng
ðịnh hồi tháng 5/2003 rằng mặc dù
ðã rà phá khá nhiều trong những
năm ’90, song mìn vẫn còn là vấn
ðề nghiêm trọng trên các tuyến
biên giới Việt-Trung và Việt Nam-Cam-pu-chia.
Trên tuyến biên giới với Lào, mìn
tuy ít song lại có khá nhiều
VLCN.[27]
Số liệu ðiều tra cho thấy người
dân hai tỉnh Quảng Trị và Thừa
Thiên-Huế thường bắt gặp bom mìn
nhất là khi ðang lấy củi, làm ðồng
hoặc chãn gia súc gần
nhà.[28] Có tới
35% diện tích ðất của tỉnh Quảng
Trị không thể sử dụng ðể trồng
trọt hay tái ðịnh
cư.[29] Rất ít
khu vực có bom mìn ðược ðánh
dấu, dù chỉ bằng những vật liệu
sẵn có tại ðịa phưõng như
cành tre.[30] Kết
quả khảo sát ở tỉnh Quảng Trị cho
thấy chỉ có 33% ðịa phưõng
dưới cấp huyện có các loại
biển báo, và 92% số nạn nhân sống
sót cho biết những khu vực mà họ bị
tai nạn không có biển báo nguy
hiểm.[31] Trong một
số trường hợp, không có bản
ðồ các bãi mìn, hoặc vị trí
đã bị dịch chuyển do lũ lụt, lở
đất hoặc xói
mòn.[32]
Các công nhân làm ðường Hồ
Chí Minh, ðoạn chạy qua các vùng bị
ảnh hưởng gần ranh giới phân chia hai
miền cũ, ðã tìm thấy hàng chục
nghìn VLCN tính từ năm
2001.[33] Các ðoạn
ðường mới mở ở các tỉnh
miền Trung ðang thu hút dân di cư từ
những vùng xuôi sống chủ yếu nhờ
nghề làm ruộng nhỏ và buôn bán. Do
dân di cư khai phá ðất ðai chưa
từng ðược sử dụng trước
ðây gần một số ðoạn của
ðường mòn Hồ Chí Minh cũ nên
họ sẽ gặp phải mìn và VLCN.
Các báo cáo từ khu vực miền Trung
và miền Nam Việt Nam cho thấy sự gia tãng
nhanh chóng của hoạt ðộng rà tìm bom
và sắt thép phế liệu ở những
vùng chưa ðược rà phá kể
từ thời chiến
tranh.[34] Phần lớn
những người làm công việc này
ðều không muốn, song phải làm do không
có lựa chọn nào khác về sinh kế;
chỉ rất ít người ðược dạy
cách tháo gỡ vật liệu
nổ.[35] Thu nhặt
sắt thép phế liệu là một hoạt
ðộng hợp pháp ở Việt Nam. Tuy vậy,
sở hữu hoặc sử dụng chất nổ lại
là bất hợp pháp. Các mức phạt
tiền và phạt tù ðã ðược
ban hành áp dụng ðối với những
người buôn bán chất nổ và
những ngư dân nào tàng trữ một
khối lượng lớn VLCN, tuy nhiên, việc thi
hành luật còn thiếu liên
tục.[36] Kết quả
tìm hiểu ở tỉnh Quảng Trị đã
khẳng định tình trạng buôn bán
nhộn nhịp sắt thép phế liệu xuyên
biên giới sang Lào. Một khi không có
chất nổ trong hoạt động buôn bán
đó thì việc xuất nhập khẩu kim
loại và thiết bị rà tìm kim loại
là hợp pháp.
Khảo sát và Ðánh giá
Ngày 25/02/2004, Thủ tướng Chính phủ
Việt Nam ðã phê duyệt kế hoạch
Khảo sát cấp quốc gia về tác
động của mìn và VLCN, kết thúc
quá trình ðàm phán kéo dài
từ tháng 12/2000.[37]
Giai ðoạn I của cuộc khảo sát sẽ
kéo dài một nãm, thực hiện tại 3
tỉnh miền Trung là Hà Tĩnh, Quảng
Bình và Quảng Trị, với kinh phí 1.158.000
ðô-la, trong ðó 993.000 ðô-la là do
Bộ Ngoại giao Mỹ tài trợ và 165.000
ðô-la ðóng góp bằng hiện vật
của Bộ Quốc phòng Việt Nam. Cõ quan
thực hiện khảo sát này là Trung tâm
công nghệ xử lư bom mìn. Tổ chức
VVAF trợ giúp về kỹ thuật, ðào
tạo và giám sát thực hiện. Mục
tiêu của khảo sát, theo VVAF, là nhằm
“cung cấp cho Chính phủ Việt Nam và
các nhà tài trợ những số liệu
chính xác và ðạt tiêu chuẩn ...
[ðể] xác ðịnh rõ hõn các
vấn ðề do VLCN gây ra và giúp Chính
phủ nâng cao nãng lực hoạch ðịnh
và xác lập ưu tiên ðối với
các nguồn lực cho hoạt ðộng phòng
chống bom
mìn.”[38]
Hoạt động thu thập số liệu với
sự hỗ trợ của Viện Xã hội học
sẽ diễn ra từ tháng 5-11/2004. Kết quả thu
thập sẽ ðược nhập vào cõ
sở dữ liệu của Hệ thống quản lư
quốc tế cho hoạt động phòng chống bom
mìn (IMSMA). Thêm vào ðó, một diện
tích 4 triệu m2 sẽ ðược khảo
sát chuẩn bị cho hoạt ðộng rà
phá.[39]
Sau khi kết thúc giai ðoạn I, cuộc khảo
sát sẽ ðược mở rộng ra các
ðịa phưõng khác trên cả
nước thêm hai nãm nữa. Khoản kinh
phí 3 triệu ðô-la ðược phân
bổ cho giai ðoạn II, với phần ðóng
góp của Bộ Quốc phòng chưa
ðược xác
ðịnh.[40] Việc
thực hiện cuộc khảo sát này có
thể ðược xem như là một phần
của xu thế ấm dần lên trong mối quan
hệ về quân sự giữa hai kẻ thù
cũ, bao gồm các chuyến thãm cấp cao, trao
ðổi tàu chiến và hợp tác về
quân y.[41]
Cõ quan Hợp tác an ninh quốc phòng
thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ đã hoàn
thành việc chuyển giao một cõ sở dữ
liệu tưõng thích với kỹ thuật
ðịa không gian về các hoạt ðộng
quân sự của Mỹ ở Ðông Nam Á
từ Cục Lưu trữ quốc gia Mỹ sang cho
quân ðội Việt Nam. Một bản sao cũng
ðược lưu tại vãn phòng VVAF ở
Hà Nội. Cõ sở dữ liệu này bao
gồm số liệu về các loại vật
liệu ðã ðược bắn từ máy
bay, trực thãng, tàu chiến, cùng với
các số liệu quân sự khác có
liên quan. Mìn sát thưõng và
các loại vật liệu sử dụng trong các
trận chiến mặt ðất không ðược
ðưa vào cõ sở dữ liệu
này.[42]
Tháng 11/2003, Dự án RENEW công bố hai
báo cáo: một báo cáo về cuộc
khảo sát tác động của bom mìn
ở huyện Triệu Phong ðược thực
hiện trong nãm 2002 và một báo cáo
về kết quả khảo sát KAP (Hiểu
biết-Nhận thức-Hành vi) do UNICEF tài trợ
và hỗ trợ thực hiện ở tỉnh
Quảng Trị.[43] Số
liệu ðược lưu giữ trong hệ thống
dữ liệu của tỉnh ðược xây
dựng phù hợp với các chuẩn mực
quốc tế.[44] Số
liệu thu thập ðược qua các cuộc
khảo sát dự kiến sẽ giúp Chính
phủ và các nàh tài trợ xác
lập ưu tiên và xác ðịnh các
kế hoạch cho tưõng
lai.[45]
Cũng trong năm 2003, tổ chức Viet Nam Assistance for
the Handicapped (VNAH), một tổ chức PCP Mỹ,
đã tiến hành các cuộc khảo
sát về nạn nhân bom mìn ở hai huyện
của tỉnh Quảng
Bình.[46] Tổ
chức Handicap International (HI) đã tiến hành
ðánh giá nhu cầu liên quan ðến vấn
ðề bom mìn ở tỉnh Tây Ninh, gần
biên giới với Cam-pu-chia, theo yêu cầu của
Hội Chữ thập đỏ
tỉnh.[47] Các kế
hoạch tiến hành khảo sát ở cấp
huyện về tác ðộng của bom mìn ở
các tỉnh Thừa Thiên-Huế và Quảng Nam
của UNICEF trong chưõng trình giáo dục
về nguy cõ bom mìn vẫn chưa có
tiến triển gì, do có sự lo ngại về
kinh phí và muốn tránh trùng lặp
với cuộc khảo sát cấp quốc gia của
BOMICO-VVAF.[48]
Tháng 1/2003, tổ chức Hatfield Consultants của
Ca-na-đa đã công bố báo cáo
cuối cùng về kết quả khảo sát
tình trạng nhiễm bom mìn và tác
ðộng ðối với sức khỏe con
người và các hoạt ðộng phát
triển kinh tế- xã hội ở huyện A
Lưới, tỉnh Thừa
Thiên-Huế.[49]
Cuộc khảo sát ðược bắt ðầu
vào nãm 2001 và ðược thực hiện
với sự cộng tác của Ủy ban 10-80. Tổ
chức Australian Volunteers International đã tiến
hành một cuộc khảo sát tưõng
tự ở huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa
Thiên-Huế và hoàn thành trong tháng
3/2003.
Các tổ chức tham gia hoạt ðộng rà
phá bom mìn thường tiến hành các
cuộc khảo sát trước và sau khi rà
phá. Ví dụ, tổ chức Mines Advisory Group (MAG),
thì nghiên cứu mức độ nhiễm,
tình hình nạn nhân hiện tại, và
khả nãng sử dụng ðất sau rà phá
trước khi bắt ðầu một dự án
mới, rồi sau ðó ðánh giá các
vấn ðề kỹ thuật, loại ðất
ðược rà phá, và các yếu
tố tưõng
tự.[50]
Hoạt ðộng ðiều phối và lập kế
hoạch
Một kế hoạch cấp quốc gia về phòng
chống bom mìn hiện vẫn chưa
ðược xây
dựng.[51] Hiện nay,
Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm về
khía cạnh an ninh quân sự và cùng
chịu trách nhiệm với Bộ Ngoại giao về
phát triển chính sách đối với
vấn đề bom mìn. Bộ Lao ðộng,
Thưõng binh và Xã hội (Bộ LÐTBXH)
chịu trách nhiệm hỗ trợ và phục
hồi chức nãng lâu dài cho các nạn
nhân, cùng với sự phối hợp của
Bộ Giáo dục-Ðào tạo (Bộ GD&ÐT)
và Bộ Y tế. Sự phối hợp giữa
các cõ quan này, cũng như giữa các
tổ chức PCP với nhau gặp phải một trở
ngại mà theo lời một chuyên gia quốc
tế ðịnh nghĩa là “sự tắc
nghẽn thông tin ngay cả giữa các ðối
tác với nhau.”
Về phía các tổ chức PCP quốc tế
và các nhà tài trợ, một Nhóm
công tác về vấn đề bom mìn
đóng vai trò điều phối không
chính thức hoạt động phòng chống
bom mìn. Nhóm công tác này, liên
kết với Liên hiệp các tổ chức
hữu nghị Việt Nam, Trung tâm dữ liệu PCP,
nhóm họp hàng quư luân phiên giữa
Hà Nội và các tỉnh miền Trung. UNICEF
là ðầu mối của các cõ quan Liên
hợp quốc (LHQ) trong hoạt ðộng giáo dục
về nguy cõ bom mìn. Hoạt động phòng
chống bom mìn không ðược ðề
cập một cách rõ ràng trong Khung viện
trợ phát triển của LHQ hay Chiến
lược toàn diện về tãng
trưởng và giảm nghèo của Chính
phủ Việt Nam, tuy nhiên, một số ðiều
ðáng lo ngại liên quan ðến bom mìn
đã ðược ðề cập thông qua
những vấn ðề ưu tiên nhằm phát
triển các mạng lưới an sinh xã hội
ðề ra trong hai tài liệu nói
trên.[52]
Quá trình ra quyết ðịnh ở cấp
tỉnh ngày càng ðược phân cấp
đối với cả hoạt động phòng
chống bom mìn lẫn các vấn ðề
phát triển khác. Các ưu tiên do
chính quyền tỉnh, cụ thể là Ủy ban
nhân dân (UBND), xác lập. Sở Ngoại
vụ tỉnh sau ðó sẽ truyền ðạt
những ưu tiên này tới các tổ
chức quốc tế hoạt ðộng trên
ðịa bàn tỉnh. Tiếp theo, UBND huyện sẽ
quyết ðịnh những ðịa phưõng
nào do huyện quản lư hoặc các
địa bàn khác sẽ là mục tiêu
ưu tiên cãn cứ trên yêu cầu
của ðịa phưõng, kế hoạch phát
triển của huyện và các dữ liệu
khác.[53]
Các tổ chức quốc tế còn kết
hợp các nỗ lực của mình với
Quân ðội Việt Nam. Ngay cả khi nhận
ðược các yêu cần tháo gỡ
từ phía cộng ðồng, mọi hành
ðộng xử lư vật liệu nổ, dù
là làm tại chỗ hay di chuyển, ðều
phải ðược các ðõn vị quân
ðội của tỉnh cho phép vì chỉ có
quân ðội mới ðược phép tiếp
cận vật liệu nổ.
Tại Quảng Trị, hiện chưa có tiến
triển nào trong việc thành lập một trung
tâm ðiều phối cấp
tỉnh.[54] Năm 2003,
dự án RENEW đã trình ðề án
chính thức cho tỉnh, song vẫn chưa nhận
ðược câu trả lời. Chi phí
thành lập ban ðầu của trung tâm
ðiều phối ước tính vào khoảng
400-500.000 ðô-la, cộng thêm 150.000 ðô-la chi
phí hoạt ðộng hàng
nãm.[55] Ở Thừa
Thiên-Huế, một trung tâm dịch vụ của
tỉnh chịu trách nhiệm sắp xếp về
mặt hậu cần cho tất cả các tổ
chức PCP (không chỉ trong lĩnh vực hoạt
ðộng phòng chống bom mìn), và chính
quyền tỉnh thường xuyên tổ chức
các cuộc hội thảo cho các tổ chức
quốc tế hoạt ðộng trên ðịa
bàn tỉnh.[56]
Rà phá mìn và vật liệu chưa
nổ
Hoạt ðộng rà phá của quân
ðội
Quân ðội nhân dân Việt Nam là
cõ quan chủ chốt trong hoạt ðộng rà
phá bom mìn. Hiện chưa có số liệu
về hoạt ðộng rà phá do quân
ðội tiến hành. Từ nãm 1975 ðến
2002, BOMICO tuyên bố 1.200 triệu m2 ðất với
4 triệu quả mìn và 8 triệu VLCN đã
ðược rà
phá.[57] Việc
rà phá bề mặt ðã ðược
tiến hành ngay sau chiến tranh trên một
diện tích rộng, song nông; nhiều khu vực
nay cần rà phá
lại.[58] Đầu
năm 2004, BOMICO ðược biết ðang rà
phá 2 triệu m2 ở huyện A Lưới, tỉnh
Thừa Thiên-Huế, tuy nhiên ðây chỉ
là một phần nhỏ trong nỗ lực mang tầm
quốc gia của
họ.[59] Năm 2003,
các ðõn vị công binh đã rà
phá những ðoạn bị Mỹ ném bom
trên tuyến ðường mòn Hồ Chí
Minh ði qua tỉnh Nghệ An và các khu vực
cảng dọc theo bờ biển Thừa Thiên-Huế
và Quảng
Trị.[60]
Dự án rà phá lớn nhất của
quân ðội trong những nãm gần ðây
là một phần của công trình xây
dựng ðường Hồ Chí Minh vượt qua
những dãy núi cao miền Trung. Các công
ty rà phá bom mìn khác của quân
ðội gồm công ty Lũng Lô, công ty
Trường Sõn và một vài ðõn
vị khác của Bộ Tư lệnh Công binh,
ðã tham gia nỗ lực rà phá bom mìn.
Tổng chi phí xây dựng con ðường
này là 500 triệu ðô-la, trong ðó 10
triệu ðô-la hay 2% ðã ðược chi cho
rà phá bom mìn, vượt quá ngân
sách dự
toán.[61]
Các ðõn vị quân ðội cấp
tỉnh và quân khu cũng tham gia hoạt ðộng
rà phá bom mìn. Trọng tâm hàng
ðầu cho hoạt ðộng rà phá của
quân ðội là các dự án xây
dựng hạ tầng, chẳng hạn như các khu
công nghiệp, ðường giao thông và
các tuyến thông tin. Không có hoạt
ðộng rà phá nào của quân
ðội diễn ra tại các ðịa ðiểm
xây dựng thông thường; ví dụ,
tại tỉnh Quảng Bình, diện tích lớn
nhất ðược rà phá trong những
nãm gần ðây là 1 triệu m2. Phí
phải trả cho các hợp ðồng rà
phá quân sự tuy thấp so với chuẩn mực
quốc tế, song lại quá cao ðối với
chính quyền tỉnh, chưa nói ðến
các cá nhân công dân, ðể có
thể rà phá một diện tích lớn.
Nãng lực rà phá cũng còn hạn
chế do trang thiết bị và ðộ sâu
nõi nhiều vật liệu nổ bị chôn
vùi.[62]
Các ðõn vị công binh quân ðội
và bộ ðội biên phòng đã
tiến hành rà phá ở các vùng
biên giới. Giai ðoạn rà phá bom mìn
trên các tuyến biên giới ðầu tiên
ðược hoàn thành vào những nãm
’90, tiếp sau ðó là giai ðoạn hai, chi
tiết hõn.[63] Trong
nãm 2003, hoạt ðộng rà phá bom mìn
đã ðược tiến hành ở các
khu vực thung lũng và các khu vực cắt ngang
biên giới thuộc tỉnh Lai Châu và Lạng
Sõn dọc theo biên giới
Việt-Trung.[64]
Các tổ chức quốc tế
Các tổ chức quốc tế hoạt ðộng
trong lĩnh vực rà phá bom mìn đã
rà phá 2,77 triệu m2 ðất trong nãm 2003
tại 3 tỉnh miền Trung là Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Bốn
tổ chức PCP hiện ðang tiến hành cả hai
hình thức rà phá tại chỗ và
dịch vụ Xử lư vật liệu nổ là
Mines Advisory Group (MAG), Solidarity Service International (SODI), Potsdam
Kommunikation (PK), và Australian Volunteers International (AVI). Hai
nhóm khác là Peace Trees (Mỹ) và Dự
án RENEW hiện đang phối hợp thực hiện
một dự án về xử lư vật liệu
nổ.[65] Tổ chức
PCP Clear Path International của Mỹ (CPI) không tham gia
hoạt ðộng rà phá bom mìn kể từ
ãnm 2002 và hiện ðang tập trung hoàn
toàn vào hoạt ðộng hỗ trợ nạn
nhân. Kể từ nãm 1998, 7 tổ chức này
ðã rà phá ðược 12 triệu m2
ðất bị nhiễm bom mìn nặng, chủ
yếu là tại hoặc xung quanh các căn cứ
quân sự cũ của Mỹ.
Tổ chức PCP Anh Mines Advisory Group vẫn là tổ
chức lớn nhất trong số các tổ chức
hoạt ðộng trong lĩnh vực rà phá bom
mìn, với 194 nhân viên thực hiện rà
phá tại chỗ và các dự án xử
lư vật liệu nổ tại Quảng Trị
và Quảng Bình, cũng như hỗ trợ
kỹ thuật và ðào tạo cho dự án
của tổ chức AVI ở Thừa Thiên-Huế.
Tại Quảng Bình, MAG hiện quản lư
các ðội rà phá bom mìn tại chỗ
ở những ðịa ðiểm có diện
tích lớn hõn sẽ ðược xây
dựng thành những xóm làng và vùng
nông thôn mới, cũng như các ðội
rà phá bom mìn lưu ðộng có
nhiệm vụ tiêu hủy các vật liệu
nổ tìm thấy tại các thôn làng
và cộng đồng. Trong năm 2003, MAG đã
rà phá tổng cộng 88,2 héc-ta, tiêu
hủy 22 quả mìn và 12.092 VLCN khác ở
Quảng Trị.[66] Tổ
chức này còn rà phá 1.483 VLCN, trong
đó có 1.055 quả bom bi tại Quảng
Bình.[67] MAG đã
hoàn thành việc rà phá bom mìn
trên khu ðất rộng 230.000m2 ðể xây
dựng một nhà máy chế biến sắn
tại Quảng Trị, ðược xem là một
phần trong kế hoạch mời gọi ðầu
tư của tỉnh.[68]
Từ tháng 1-6/2004, MAG đã rà phá 93
héc-ta ðất với 5.554 VLCN và 54 quả
mìn.
MAG bắt ðầu hoạt ðộng rà phá
bom mìn tại chỗ ở tỉnh Quảng Trị
vào nãm 1999, sau ðó bổ sung thêm một
ðội xử lư vật liêu nổ vào
năm 2001. Năm 2002, dự án Quảng Bình
ðược triển khai bằng việc rà
phá bom mìn ở huyện Lệ Thủy và cung
cấp dịch vụ xử lư vật liệu nổ
ở thị xã Đồng Hới. Tổng cộng,
từ năm 1999 đến tháng 8/2004, MAG đã
rà phá 3.850.000 m2 ðất, tiêu hủy 39.458
VLCN và 2.303 quả mìn. Các ðội rà
phá lưu động của MAG đã
đến 61.921 hộ gia đình ở 384 thôn
làng để xử lư 25.898 VLCN và 270 quả
mìn.[69]
Các dự án rà phá bom mìn tại
chỗ thường ðược lồng ghép
với kế hoạch tái ðịnh cư cho
các hộ gia ðình nghèo: 176 gia đình
đã ðược ðịnh cư tại 3
ðịa ðiểm thuộc tỉnh Quảng Trị
và 212 gia ðình sẽ ðược bổ sung
khi dự án hoàn thành. Ðịa ðiểm
rộng 800.000m2 thuộc tỉnh Quảng Bình sẽ
là nõi cư ngụ của 453 gia ðình sau
khi ðược rà phá
xong.[70] Tổ chức PCP
Anh Plan International hiện đang hợp tác với
tổ chức MAG trong nỗ lực hỗ trợ tái
ðịnh cư ở tỉnh Quảng
Bình.[71] Nguồn kinh
phí 2 triệu ðô-la hàng nãm của MAG
phần lớn là do Bộ Ngoại giao Mỹ, tổ
chức PCP Adopt-a-Minefield, và Quỹ Freeman Mỹ
tài trợ.[72]
Tổ chức Solidarity Service International, tổ chức
quốc tế ðầu tiên hoạt ðộng trong
lĩnh vực rà phá bom mìn ở Việt Nam,
đã rà phá ðược 5.004.036 m2 ở
tỉnh Quảng Trị, phát hiện 24.829 quả
mìn và VLCN, và xây dựng 158 ngôi
nhà từ năm 1998 đến táng
4/2004.[73] Các
ðội lưu ðộng của SODI, bắt đầu
hoạt động từ giữa năm 2002, đã
rà phá ðược 202.194m2 ðất, tháo
gỡ 4.613 VLCN ở 16 ðịa phưõng thuộc
huyện Cam Lộ và 4 ðịa bàn thuộc
huyện Triệu Phong. Số lượng nhân
viên của SODI hiện gồm có 52 người
Việt và 3 chuyên gia xử lư vật liệu
nổ Đức, với việc nâng cao năng lực
cho nhân viên ðịa phưõng
ðược xem là một ưu
tiên.[74]
Nhằm mục ðích tái ðịnh cư cho
những người dân ðã bị mất
đất đai trong thời gian chiến tranh, tổ
chức Potsdam Kommunikation (PK) đã rà phá
2.500.000m2 ðất với hõn 7.100 VLCN kể từ
tháng 6/2000 ở 3 huyện của tỉnh Thừa
Thiên-Huế, với một ðội ngũ nhân
viên gồm 3 chuyên gia Ðức và 50
người Việt. Trong nửa ðầu nãm 2004,
360.000 m2 ðất và 1.500 VLCN ðã
ðược rà phá. Một ðội rà
phá bom mìn lưu ðộng 5 người
ðã bắt ðầu hoạt ðộng trong
tháng 7/2003 và kể từ ðó ðã
rà phá hõn 87.000 m2 ðất với hõn
8.000 VLCN và mìn.[75]
PK hiện ðang hợp tác với tổ chức World
Vision và các tổ chức PCP quốc tế
khác về việc xây dựng nhà ở
trên diện tích ðất ðã rà
phá. Nãm 2003, dự án rà phá bom
mìn của PK ở Huế đã rà phá
ðược 800.000m2 ðất ở 2 thôn, hiện
là nõi ðịnh cư của 150 gia ðình
trước ðây không có ðất
ðai.[76]
Tính ðến cuối nãm 2004, SODI và PK
dự kiến rà phá tổng cộng 1.500.000m2
ðất ở cả hai tỉnh. Diện tích
ðất này sẽ ðược sử dụng
ðể tái ðịnh cư cho 180 gia ðình
ở 2 thôn Cẩm Thủy và Bình Ðiền,
gần ðường Hồ Chí Minh mới. Các
ðối tác Việt Nam sẽ ðóng góp
500.000 ðô-la thông qua việc cải thiện
cõ sở hạ tầng. Các dự án
này cũng sẽ bao gồm cả hoạt ðộng
giáo dục về nguy cõ bom mìn, ðánh
dấu các khu vực bị ảnh hưởng,
và tập huấn cho công binh Việt
Nam.[77] Cả SODI lẫn
PK ðều nhận ðược kinh phí tài
trợ cho các hoạt ðộng rà phá bom
mìn từ Bộ Ngoại giao Ðức. Công ty
Gerbera, một công ty thưõng mại hoạt
ðộng trong lĩnh vực rà phá bom mìn,
hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho cả hai
tổ chức
này.[78]
Tổ chức Australian Volunteers International (AVI), với
lực lượng gồm 26 nhân viên quân
sự biệt phái sang và sự hỗ trợ
kỹ thuật của tổ chức MAG, ðang tiến
hành dự án xử lư vật liệu nổ
lưu ðộgn và rà phá bom mìn
tại chỗ. Dự án này nhằm mục
ðích tháo gỡ toàn bộ VLCN ở 5
ðịa phưõng ðược lựa chọn
ưu tiên, trước hết là ở huyện
Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên-Huế, tiếp
theo là các hoạt ðộng phát triển
cộng ðồng như ðã thống nhất
với người dân ðịa phưõng.
Nãm 2003, dự án ðã rà phá 28.688 m2
ðất ðể xây dựng hạ tầng, và
7.338 m2 trong quư đầu của năm 2004. Các
đội xử lư vật liệu nổ của
quân đội đã đến với 6.249 hộ
gia đình trong nãm 2003, và 2.217 hộ trong
quư đầu năm 2004. Dự án
được AusAID tài trợ cho giai ðoạn
từ tháng 7/2002 ðến tháng 6/2005. Các
kế hoạch tưõng lai bao gồm việc
ðến từng nhà ðể tháo gỡ VLCN khi
ðược báo tin và nâng cao nãng
lực cho các ðội rà phá bom mìn
của ðịa
phưõng.[79]
Ðội rà phá bom mìn lưu ðộng
của tổ chức Peace Trees ðóng tại thị
xã Ðông Hà ðã tiến hành
hoạt ðộng rà phá ở hai huyện
miền núi Ðakrông và Hướng Hóa
vào ðầu nãm 2004, với nguồn kinh phí
do Oxfam Hong Kong tài
trợ.[80] Tổ chức
Peace Trees chi 65.000 ðô-la mỗi nãm cho hoạt
ðộng rà phá và giáo dục về
nguy cõ bom mìn.[81]
Bắt đầu từ quư hai năm 2004, đội
này sẽ do Dự án RENEW tài trợ và
chuyển hoạt ðộng sang huyện Triệu Phong,
nhờ khoản đóng góp 60.000 đô-la
từ hai cá
nhân.[82] Tháng
9/2002, PeaceTrees Vietnam đã khánh thành Làng
hữu nghị do tổ chức này xây dựng
tại thị xã Ðông Hà, Quảng Trị,
trên nền khu cãn cứ hải quân cũ
của Mỹ. Ðể thực hiện dự án
này, Peace Trees đã hợp ðồng với
công ty rà phá bom mìn thưõng mại
UXB ðể rà phá 400.000m2 ðất.
Giáo dục phòng tránh bom mìn
Cùng với các ðối tác Việt Nam
ở cấp quốc gia, tỉnh và ðịa
phưõng, 9 tổ chức quốc tế ðã
tiến hành các hoạt động giáo
dục phòng tránh bom mìn (GDPTBM) trong nãm
2003. Trên 22.900 người ðã tham gia các
ðợt hoạt ðộng GDPTBM trong nãm qua. Hầu
hết các nỗ lực về GDPTBM ðều tiếp
tục chú trọng tới 3 tỉnh miền Trung
là Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên-Huế. Các cuộc khảo sát và
ðánh giá ðược thực hiện xong
trong nãm 2003 và ðầu nãm 2004 cho thấy
rằng các chưõng trình đều
đã thành công nhờ ðến
ðược với nhiều người, làm thay
ðổi thái ðộ và hành vi trong một
số trường hợp. Tuy vậy, số liệu
về thưõng vong và thống kê trên
báo chí cho thấy rằng còn rất cần
nhiều hoạt ðộng GDPTBM ở những ðịa
phưõng khác trên cả nước,
ðặc biệt là vùng duyên hải Nam Trung
bộ và Tây Nguyên.
Ngay cả ở những vùng ðã phổ
biến các thông ðiệp về GDPTBM, tỷ
lệ người ðược tiếp cận cũng
không ðều. Chỉ có 7% số người
bị thưõng do bom mìn ở Quảng Trị
trong 5 năm qua cho biết đã nghe qua các
thông điệp về phòng tránh bom mìn
trước khi bị thưõng, so với 80% số
người trên toàn tỉnh. Việc tiếp
cận các thông ðiệp hiện có giảm
dần theo thu nhập. Số dân sống ở các
huyện miền núi giáp biên giới Lào
bị ảnh hưởng bom mìn nặng
ðược tiếp cận các thông tin
giáo dục phòng tránh bom mìn chỉ
bằng non nửa so với người dân sống
ở những nõi khác. Truyền hình có
ðộ bao phủ rộng nhất trong số các
biện pháp giáo dục ðối với mọi
nhóm thu nhập, dân tộc và vùng
lãnh thổ, song khả nãng tiếp cận của
nó cũng giảm ði ở những khu vực
nghèo khó, xa xôi và vùng các dân
tộc ít người sinh sống. Ðài
truyền thanh là biện pháp hiệu quả
hõn ðể ðến ðược với
những người dân
này.[83]
Ở Quảng Bình, hiện chưa có các
chưõng trình GDPTBM trong trường học;
hoạt ðộng GDPTBM chỉ có ở những
nõi ðang diễn ra các nỗ lực rà
phá bom mìn. Các quan chức chính quyền
bàu tỏ sự mong muốn có thêm các
chưõng trình truyền hình dành cho
ðối tượng là trẻ em và những
người làm nông nghiệp, cũng như
các nỗ lực nhằm chặn đứng tình
trạng “săn bom” của cá
nhân.[84]
Các nỗ lực ở cấp quốc gia nhằm
lồng ghép các thông điệp về
phòng tránh bom mìn vào chưõng
trình quốc gia về phòng tránh tai nạn
đã bị chậm lại trong năm 2003. Ủy ban
quốc gia về Phòng tránh tai nạn và
thưõng tật ðã ðề ra một kế
hoạch hành ðộng sau khi họp hội nghị
lần thứ nhất nãm 2002, song chưa có
hành ðộng nào ðược tiến
hành ðể thực hiện chưõng trình
này. UNICEF, cõ quan hỗ trợ chính cho
chưõng trình này, vẫn tiếp tục
một chiến dịch phòng tránh thưõng
tật tại 15 tỉnh, thành phố trên toàn
quốc thông qua Bộ Giáo dục và
Ðào tạo, Ủy ban Dân số, Gia ðình
và Trẻ em, trong ðó có hoạt ðộng
GDPTBM. Các hiến lược thực hiện bao
gồm việc sử dụng phưõng tiện
thông tin ðại chúng (truyền hình,
ðài phát thanh, báo chí và áp
phích) và biên soạn một cuốn sổ tay
về an toàn và phòng tránh thưõng
tật cho trẻ em ở nhà, giữa cộng
ðồng và ở
trường.[85]
Cụ thể về các thông ðiệp liên
quan ðến bom mìn, UNICEF hiện đang hỗ
trợ nhiều hoạt động ở các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên-Huế trong nãm 2004 như: các
chưõng trình phát thanh và truyền
hình, bảng tin, GDPTBM cho cộng ðồng dọc theo
tuyến ðường Hồ Chí Minh, tập
huấn cho giáo viên và nhiều hoạt
ðộng khác. Tổng kinh phí là 160.000
ðô-la.[86] Tại
Quảng Bình và Thừa Thiên-Huế, báo
chí ðịa phưõng ðã tổ chức
các cuộc thi cuối tuần về phòng
tránh bom mìn với những giải thưởng
nhỏ do UNICEF trao. Ðoàn thanh niên tổ chức
các buổi biểu diễn vãn nghệ tại
các cung vãn hóa thanh niên, song do kinh phí
thấp nên những hoạt ðộng này chỉ
thu hút ðược một lượng khán
giả nhỏ.[87]
Nãm 2003, Dự án RENEW phối hợp với
Ðài truyền hình và Ðoàn thanh
niên ðịa phưõng hoàn thành một
dự án phòng chống bom mìn thí
ðiểm kéo dài 18 tháng, trong ðó
có các hoạt ðộng GDPTBM tại tất
cả 19 xã của huyện Triệu Phong, Quảng
Trị. Dự án bắt ðầu vào tháng
7/2001. Trong giai ðoạn II sẽ chuyển giao dự
án cho các ðối tác ðịa
phưõng và mở rộng hoạt ðộng
sang một huyện mới là huyện Hải
Lãng. Kết quả ðánh giá cho thấy
cần có sự phối hợp tốt hõn nữa
giữa các hợp phần của dự án,
ðặc biệt là sự liên kết chặt
chẽ hõn nữa với hoạt ðộng rà
phá bom mìn lưu
ðộng.[88] RENEW
hiện ðang hợp tác với UNICEF trong hoạt
ðộng GDPTBM cho trẻ em và chuẩn bị làm
một cuốn sách ðể phát cho trẻ em
Quảng Trị.[89] Kể
từ tháng 7/2001, dự án RENEW đã tổ
chức “các cuộc diễu hành phòng
tránh bom mìn”, các cuộc hội thảo
về phòng tránh bom mìn cho người
dân cùng tham gia, và sản xuất các
ðoạn quảng cáo ngắn và phim tài
liệu về GDPTBM.[90]
Tổ chức Catholic Relief Services (CRS) bắt đầu
triển khai một khoá học về GDPTBM cho giáo
viên ở huyện Triệu Phong vào tháng
11/2001. Nãm 2002, CRS ðã giới thiệu một
chưõng trình dạy và học về
phòng tránh bom mìn trong trường tiểu
học, với 200 giáo viên và 4.050 học sinh
ðược hưởng lợi từ chưõng
trình. Năm 2003, dự án GDPTBM đã
ðến ðược với 7 trường tiểu
học ở 5 xã. Hõn 4.000 trẻ em và 200
giáo viên ðã sử dụng chưõng
trình dạy và học về phòng tránh
bom mìn, và hiện chưõng trình
này ðang ðược chỉnh lư lần
thứ ba. Các cuộc họp giữa nhà
trường và cộng ðồng ðã thu
hút ðược 3.500 cha mẹ học sinh tham gia.
tại một “trại sáng tác” mùa
hè nãm 2003, 31 học sinh và giáo viên
Việt Nam và Lào ðã cùng soạn
một cuốn sách song ngữ gồm những câu
chuyện và hình ảnh về phòng tránh
bom mìn. Dự án của CRS dự kiến
ðược hoàn thành vào tháng 9/2004;
Hiện tổ chức này ðang xem xét việc
mở rộng dự án sang các huyện
khác.[91]
Tổ chức PCP Peace Trees Vietnam đã thành
lập Trung tâm GDPTBM mang tên Danaan Parry vào
tháng 9/1998 nhằm mục ðích GDPTBM và
phục hồi chức nãng cho các nạn nhân
bom mìn. Năm 2002, tổ chức này ðã
cùng với Hội Phụ nữ tiến hành
tập huấn cho giáo viên về GDPTBM và
tập huấn tại các thư viện của
Quảng Trị cho hõn 2.000
người.[92] Nãm
2003, Peace Trees Vietnam tổ chức một trại GDPTBM
và cuộc thi vẽ tranh tại thị xã
Ðông Hà, Quảng Trị với gần 800 em
thiếu nhi tham gia.[93]
Tính đến đầu năm 2004, Peace Trees
đã cung cấp tài liệu về GDPTBM cho
các thư viện mà tổ chức này
xây dựng tại 5 xã. Peace Trees Viet Nam đã
tài trợ 12.600 ðô-la trong số tổng kinh
phí dự án là 33.700 ðô-la, phần
còn lại do Hội Phụ nữ tỉnh, Chính
phủ Úc và sứ quán Hà Lan tài
trợ.[94]
Các tổ chức SODI, PK và AVI ðều có
hợp phần về GDPTBM trong các dự án
rà phá bom mìn của mình. SODI kết
hợp các hoạt động phòng tránh bom
mìn với hoạt động của các
đội xử lư vật liệu nổ ở hai
huyện Cam Lộ và Triệu Phong, và ðã
ðến ðược với 4.231 học sinh, giáo
viên và phụ huynh học sinh trong nãm
2003.[95] PK bắt
ðầu một chưõng trình phòng
tránh bom mìn cho cộng ðồng trên phạm
vi toàn tỉnh vào nãm 2002, với trọng
tâm là việc ðến thãm các
trường học tại huyện Hưõng
Thủy, nõi ðang diễn ra hoạt ðộng
rà phá bom mìn. Ðồng thời với
việc rà phá bom mìn lưu ðộng,
nhóm này còn tiến hành các hoạt
ðộng GDPTBM với sự phối hợp của
Hội Phụ nữ và Ðoàn thanh niên
tỉnh. Ðến hết tháng 6/2004, có 7.000
học sinh phổ thông và 270 giáo viên
ðã tham gia.[96]
Tại huyện Phong Ðiền, Thừa Thiên-Huế, 64
người ðã tham gia các cuộc họp
của nhóm trọng tâm do AVI tài trợ trong
nãm 2003. Các hoạt ðộng này ðưa
ðến việc nhận ðược 6 yêu cầu
rà phá, 3 trong số ðó ðã
ðược giải quyết. AVI đã phân
phát tờ rõi về GDPTBM khi các ðội
công tác của AVI ðến các gia ðình
để xử lư vật liệu nổ và
tổ chức các lớp tập huấn về
nông nghiệp.[97]
Tổ chức VNAH bắt ðầu các dự
án GDPTBM ở Thanh Hóa và Quảng Bình
trong tháng 4/2002. Tại Quảng Bình, dự
án đã tập huấn cho 90 giáo viên
trung học ở huyện Bố Trạch, sử dụng
một số tài liệu của CRS và Dự
án RENEW ở Quảng Trị. Năm 2003, 3.400 học
sinh đã tham gia các hoạt ðộng GDPTBM ở
6 trường tiểu học và trung học cõ
sở.[98] VNAH hy vọng
sẽ mở rộng dự án thí điểm
này thành dự án PTBM tổng hợp trong
nãm 2004. Tuy nhiên, hoạt ðộng GDPTBM ở
Thanh Hóa ðã phải ngừng lại do ðối
tác của VNAH là Sở LÐTBXH yêu cầu
chuyển sang các hoạt ðộng
khác.[99]
Tổ chức Handicap International đã mở văn
phòng tại Hà Nội vào cuối năm 2003.
Ðại diện của tổ chức này hiện
vẫn ðang xem xét các dự án GDPTBM và
hỗ trợ nạn nhân ðể bắt ðầu
triển khai vào cuối nãm
2004.[100]
Kinh phí cho hoạt động phòng chống bom
mìn
Việt Nam không công khai ngân sách dành
cho hoạt ðộng phòng chống bom mìn, song
các nguồn tin chính thức tuyên bố
rằng Chính phủ ðầu tư “hàng
trãm tỷ ðồng (tưõng ðưõng
hàng chục triệu ðô-la) cho việc rà
phá bom mìn” mỗi
năm.[101] Bộ Quốc
phòng ước tính ðể hoàn thành
việc rà phá trong vòng 10 năm tới sẽ
phải tốn 4 tỷ đô-la, đồng thời
cộng thêm 1 tỷ ðô-la cho nhu cầu hỗ
trợ nạn
nhân.[102]
Nãm 2003, ba nhà tài trợ thông báo
ðã cung cấp tổng cộng 4,3 triệu
đô-la cho hoạt động phòng chống bom
mìn ở Việt Nam, cụ thể là: Mỹ -
2.427.000 ðô-la; Ðức – 966.538 Euro (1.093.637
ðô-la);và Úc – 1.200.000 ðô-la Úc
(782.400 đô-la Mỹ). Landmine Monitor xác
định 17,7 triệu đô-la đã
ðược chi cho hoạt ðộng phòng chống
bom mìn ở Việt Nam trong nãm 2002 và 5,7
triệu ðô-la trong nãm 2001.
Theo báo cáo từ các nhà tài
trợ, hõn 35 triệu ðô-la ðã
ðược tài trợ hoặc cam kết tài
trợ cho hoạt ðộng phòng chống bom mìn
ở Việt Nam trong những nãm gần ðây.
Con số này bao gồm cả khoản tiền 12
triệu ðô-la do Chính phủ Nhật bản
tài trợ cho Bộ Quốc phòng trong nãm 2002
ðể mua sắm thiết bị rà phá bom
mìn sử dụng trong các dự án phát
triển hạ tầng, chẳng hạn như
ðường Hồ Chí Minh. Các nhà
tài trợ khác gồm chính phủ các
nước Ðan Mạch, Ai-len và Na-uy với
khoản tiền tài trợ 350.000 NOK (49.435 ðô-la)
cho tổ chức Landmine Survivors Network (LSN) trong nãm 2003
ðể phát triển mạng lưới hỗ
trợ nạn nhân bom mìn ở Việt Nam –
cũng như Quỹ Freeman, SODI, PK, Liên hợp
quốc, và các quỹ và tổ chức
cứu trợ khác.
Nhà tài trợ song phưõng lớn
nhất cho hoạt ðộng phòng chống bom mìn
ở Việt Nam là Mỹ. Tổng số tiền
tài trợ nãm 2003 là 2,427 triệu ðô-la
bao gômg kinh phí cho dự án Khảo sát
cấp quốc gia về tác động của bom
mìn, hoạt ðộng rà phá bom mìn do
tổ chức MAG tiến hành, và trang thiết
bị cho Bộ Tư lệnh công
binh.[103] Từ năm
1999 đến 2003, Mỹ đã tài trợ 13,6
triệu đô-la cho hoạt động phòng
chống bom mìn. Nguồn kinh phí hỗ trợ
khác của Mỹ cho hoạt ðộng trợ
giúp nạn nhân là từ Quỹ Hỗ trợ
nạn nhân chiến tranh mang tên Leahy, hiện ðang
hỗ trợ tổ chức Health Volunteers Overseas (HVO), VNAH,
VVAF, Prosthetics Outreach Foundation, và World Vision. Từ
nãm 1999, Quỹ này ðã tài trợ
tổng cộng 7,85 triệu ðô-la cho lĩnh vực
người tàn tật nói chung, bao gồm cả
nạn nhân bom mìn chứ không tách
riêng.[104] Tổ
chức LSN nhận ðược sự tài trợ
từ Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Mỹ,
với ngân sách hàng nãm cho Việt Nam
ở vào 160.000
đô-la.[105]
Bộ Ngoại giao Ðức hiện ðang tài
trợ cho các dự án rà phá bom mìn
và tái ðịnh cư của SODI và
PK ở các tỉnh Quảng Trị và Thừa
Thiên-Huế. Tổng số tiền tài trợ
nãm 2003 là 966.538 Euro (1,09 triệu ðô-la), trong
ðó 501.281 Euro cho SODI và 465.257 Euro cho PK. Số
tiền tài trợ này khá ổn ðịnh
trong 5 nãm qua. Chính phủ Ðức còn
hỗ trợ chưõng trình ðào tạo
kỹ thuật viên làm chân tay giả VIETCOT
ở Hà Nội, với khoản kinh phí 8,18
triệu Euro (9,2 triệu ðô-la) tài trợ
thông qua tổ chức GTZ kể từ nãm
1994.[106]
Cõ quan Phát triển quốc tế Úc (AusAID)
hỗ trợ 1,2 triệu ðô-la Úc (782.400
ðô-la)[107] cho dự
án của tổ chức AVI ở Thừa
Thiên-Huế trong nãm
2003.[108] Phí Úc
cho biết đã tài trợ 650.000 ðô-la
Mỹ trong nãm 2002 và 1,9 triệu ðô-la
Mỹ nãm 2001.
Chính phủ Nhật Bản đã thực
hiện xong khoản tài trợ 12 triệu ðô-la
bằng trang thiết bị rà phá bom mìn
ðể rà phá cho cong trình xây dựng
ðường Hồ Chí Minh trong nãm 2002.
Một quan chức Sứ quán Nhật Bản cho Landmine
Monitor biết rằng số trang thiết bị ðó
còn ðược sử dụng ðến khi
hoàn thành việc xây dựng ðường,
và vào thời ðiểm này Chính phủ
Nhật Bản chưa có kế hoạch tiếp
tục hỗ
trợ.[109]
Ai-len cho biết đã tài trợ 195.000 Bảng
Ai-len trong năm 2001, còn Ðan Mạch tài trợ 1
triệu ðô-la trng nãm 2000 và 1 triệu
ðô-la nãm 1999.
Các tổ chức PCP quốc tế hoạt
động trong lĩnh vực phòng chống bom
mìn và hỗ trợ nạn nhân đã
nhận ðược kinh phí tài trợ từ
các nguồn song phưõng, ða phưõng
và tư nhân trong nãm 2003. Chính phủ
Bỉ ðóng góp cho chưõng trình
của HI ở miền Nam Việt Nam, còn Sứ
quán Hà Lan thì hỗ trợ hoạt
ðộng GDPTBM thông qua tổ chức Peace Trees ở
tỉnh Quảng Trị. Các nhà tài trợ
tư nhân có những ðóng góp
ðáng kể cho một số dự án bao gồm
Quỹ Freeman và và chưõng trình
Adopt-A-Minefield của Anh. Các nhà tài trợ
khác bao gồm tổ chức Atlantic Philanthropies, Cordaid
(Hà Lan), Quỹ Nippon và tổ chức Oxfam Hong Kong.
Liên minh vì sự an toàn của trẻ em do
cựu đại sứ Mỹ tại Việt Nam Pete
Peterson sáng lập đã tài trợ 100.000
ðô-la cho VVMF ðể thực hiện các dự
án GDPTBM và hỗ trợ nạn nhân thuộc
Dự án RENEW trong nãm 2004; 75.000 ðô-la trong
số này là khoản ðóng góp của
Công ty Bảo hiểm ACE
(Mỹ).[110]
Tại cuộc thi “Ngày sáng tạo” do
Ngân hàng Thế giới tổ chức hồi
tháng 5/2003, Ngân hàng Thế giới ðã
trao một số khoản tài trợ nhỏ khoảng
10.000 ðô-la mỗi khoản cho vài chục tổ
chức quốc tế và trong nước, trong
ðó có mạng lưới của
người tàn tật. Dự án “Trẻ em
giúp nâng cao nhận thức về sự an
toàn liên quan ðến bom mìn trong cộng
ðồng” của tổ chức CRS là một
trong những dự án giành ðược
tài trợ.
Một số nhà hoạt ðộng phòng
chống bom mìn nhận xét rằng các
nhà tài trợ quốc tế và các
ðối tác về phía Chính phủ Việt
Nam có thể tiến một bước quan trọng
ðể có ðược sự ðiều phối
tốt hõn nữa bằng cách ðưa kinh
phí cho hoạt ðộng phòng chống bom mìn
vào các dự án phát triển và
xây dựng hạ tầng trên toàn quốc.
Ví dụ, Ngân hàng Thế giới và
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
vẫn chưa có những kế hoạch cụ
thể nhằm giải quyết nhu cầu này, ngay
cả khi các ðội xây dựng trong các
dự án ðường giao thông của họ
thường xuyên gọi ðiện yêu cầu
công binh ðến tháo gỡ bom
mìn.[111]
Thưõng vong do bom mìn
Hiện chưa có một cõ chế quốc gia
toàn diện ðể thu thập và lưu
giữ số liệu về thưõng vong do mìn
và VLCN gây ra ở Việt Nam. Ðiều tra
riêng của Landmine Monitor qua báo chí trong và
ngoài nước cùng với thông tin do tổ
chức CPI cho thấy ðã có ít nhất 220
trường hợp thưõng vong mới do bom
mìn trong nãm 2003, trong ðó 81 người
chết và 139 người bị
thưõng.[112]
Những con số này chắc chắn là còn
thiếu nhiều. BOMICO ước tính “trung
bình” mỗi nãm có 1.110 người
chết và 1.882 người bị
thưõng.[113]
Các nguồn tin của Chính phủ cũng cho hay
“số vụ tai nạn do bom mìn gây ra
không ngừng tãng thêm ở mức 2.000 nạn
nhân một
nãm...”[114]
Các nguồn khác tính toán rằng
hàng nãm mìn và VLCN làm chết và
làm bị thưõng tới 1.200 người
Việt Nam.[115]
Tình hình báo cáo con số
thưõng vong ðang dần dần ðược
làm tốt hõn, ðặc biệt là ở
những vùng có các chưõng trình
hỗ trợ nạn nhân ðang hoạt ðộng
tích cực. Nãm 2002, báo chí ðưa
tin có ít nhất 166 trường hợp
thưõng vong do bom mìn mới xảy ra (66
người chết và 100 người bị
thưõng) and 237 (97 người chết và 140
người bị thưõng) trong nãm
2001.[116] Tổ chức
CPI ước tính rằng trong số này có
gần 100% trường hợp thưõng vong mới
ở Quảng Trị, 85% ở Quảng Bình, tuy
nhiên lại ít hõn nhiều ở những
ðịa phưõng
khác.[117]
Các trường hợp thưõng vong tiếp
tục ðược báo cáo trong nãm 2004.
Trong 4 tháng ðầu nãm, ít nhất 114
người ðã chết hoặc bị
thưõng trong các vụ tai nạn bom
mìn.[118] Tỷ
lệ thưõng vong do bom mìn ðược
báo cáo cao gấp hai lần so với cùng
kỳ nãm 2003. Một số yếu tố có
thể góp phần gây ra sự gia tãng này
bao gồm việc khai phá những vùng ðất
mới dọc theo ðường Hồ Chí Minh,
công tác thu thập số liệu ðược
làm tốt hõn, và giá bán sắt
thép phế liệu cao
hõn.[119]
Số liệu về thưõng vong do bom mìn thu
thập ðược qua các cuộc khảo sát
tại ðịa phưõng trong nãm 2002-2003 cho
thấy rõ ràng có sự sụt giảm
về số vụ tai nạn bom mìn theo thời gian.
Tại tỉnh Quảng Trị, tỷ lệ sụt
giảm lên tới 45-50% kể từ giữa những
năm ’90.[120] Thu
nhặt phế liệu, “săn bom,” và
giẫm phải vật liệu nổ là những
nguyên nhân hàng ðầu gây ra nhiều
vụ tai nạn gần ðây, chiếm từ 25
ðến 50% số trường hợp thưõng
vong trong 5 nãm qua. Các nguyên nhân khác
gây tai nạn gần ðây bao gồm làm
ruộng, chãn gia súc, lấy củi hoặc
lấy
nước.[121]
Phần lớn số thưõng vong trên
toàn quốc là do bom bi và các loại VLCN
khác gây ra chứ không phải do mìn
sát thưõng; do ðó, các nạn
nhân bom mìn ở Việt Nam thường phải
chịu những thưõng tổn nửa thân
mình trên, cụt chi trên và mù nhiều
hõn là bị cụt chi
dưới.[122]
Kể từ năm 1999, có ít nhất 5 chiến
sĩ công binh đã chết và 2 người
bị thưõng trong các hoạt ðộng
rà phá bom mìn: 1 người bị chết
nãm 2003;[123] 2
người bị thưõng nãm
2002;[124] 2 người
bị chết nãm
2001;[125] ít nhất 2
hoặc 3 người bị chết trong nãm
1999.[126] Trong các
năm 1991-1998, 37 chiến sĩ công binh đã
tử vong trong các hoạt ðộng rà phá
bom mìn dọc biên giới phía bắc của
Việt Nam.[127]
Tháng 11/2003, Dự án RENEW đã tiến
hành một cuộc khảo sát về tình
hình thưõng vong do bom mìn ở tỉnh
Quảng Trị. Khảo sát đã phát
hiện ðược rằng có 2.540 người
chết và 4.243 người bị thưõng
trong các vụ tai nạn bom mìn từ nãm 1975
ðến 2002; 50% số vụ tai nạn xảy ra trong
khoảng thời gian 1975-1980. Tỷ lệ thưõng
vong giảm khoảng 200 trường hợp /nãm trong
những nãm ’80, 150 trường hợp vào
ðầu những nãm ‘90, và 50 trường
hợp/nãm kể từ nãm 1998. Phần lớn
nạn nhân bom mìn là nam giới (chiếm 83%
ở Quảng Trị). Trong 5 nãm qua, 32% số
thưõng vong do bom mìn ở Quảng Trị
là trẻ em từ 18 tuổi trở
xuống.[128] Một
cuộc khảo sát tại huyện A Luoi, Thừa
Thiên-Huế ðã phát hiện ra rằng
trẻ em rất dễ tử vong do các vết
thưõng: 62% số nạn nhân trẻ em bị
chết so với 25% nạn nhân người
lớn.[129] Tại
Quảng Bình, một cuộc khảo sát do VNAH
và Sở Lao động phối hợp thực
hiện đã cho thấy có 276 người
chết và 118 người bị thưõng
ở huyện Bố Trạch kể từ nãm
1975.[130]
Số liệu thống kê trên toàn quốc
mới nhất vào ngày 31/12/2000 do Bộ LÐTBXH
cung cấp cho biết có 38.849 người chết
và 65.852 người bị thưõng do bom
mìn kể từ năm
1975.[131] Một cuộc
khảo sát khác của Bộ LÐTBXH và UNICEF
ðề xuất Chính phủ nên tiến hành
một cuộc ðiều tra cấp quốc gia về
người tàn tật (trong ðó có nạn
nhân bom
mìn).[132]
Hỗ trợ nạn nhân
Ở Việt Nam, dịch vụ y tế và chãm
sóc sức khỏe do Bộ Y tế chịu trách
nhiệm cung cấp ở các cấp tỉnh, huyện
và xã, còn dịch vụ phục hồi
chức nãng (PHCN) lại do Bộ Y tế và
Bộ LÐTBXH cung cấp. Không có sự phân
biệt trong khám chữa bệnh và cung cấp
dịch vụ PHCN cho các nạn nhân bom mìn.
Trên thực tế, ða số các tổ chức
PCP quốc tế làm việc trong lĩnh vực
người tàn tật cũng không phân
biệt nạn nhân bom mìn với những
người tàn tật
khác.[133]
Các nạn nhân bom mìn dường như
sống dưới mức chuẩn nghèo quốc gia.
Gần 1/3 số gia ðình nạn nhân bom mìn
sống với 5.000 ðồng/ngày (0,30 ðô-la
Mỹ) hoặc ít hõn, và 90% sống trong
các ngôi nhà lụp xụp. Ða số cho
biết họ không nhận ðược sự
hỗ trợ nào từ bên
ngoài.[134] Các
cuộc ðiều tra gần ðây phát hiện ra
rằng ưu tiên hàng ðầu ðối
với hõn 75% số nạn nhân bom mìn là
ðược trợ giúp ðể tái hòa
nhập về kinh tế và xã hội, trong
đó có việc tiếp cận các nguồn
tài trợ hoặc vốn vay, và hỗ trợ
giáo dục.[135]
Sự hỗ trợ hiện nay là chưa ðủ
ðể ðáp ứng các nhu cầu của
cộng ðồng và ðược ðiều
phối kém với các mặt khác của
hoạt ðộng phòng chống bom
mìn.[136]
Việt Nam hiện có các dịch vụ y tế
và PHCN thích hợp cho các nạn nhân bom
mìn. Tuy nhiên, họ lại vấp phải
những trở ngại về ðịa ðiểm và
chi phí ðể tiếp cận các dịch vụ
này. Phần lớn các tai nạn bom mìn
xảy ra ở những nõi cách xa các tỉnh
lỵ, nõi tập trung các cõ sở y tế.
Cụ thể là khu vực miền Trung hiện
không ðược cung cấp ðầy ðủ
dịch vụ. Chưõng trình bảo hiểm y
tế cho người tàn tật chỉ ðến
ðược với 1% tổng số người
tàn tật theo ước
tính.[137]
Tổ chức CPI đã hỗ trợ về cấp
cứu y tế kể từ năm 2001 cho các nạn
nhân bom mìn ở 10 tỉnh miền Trung và Nam
Trung bộ, bắt đầu từ Nghệ An vào
phía Nam ðến Gia Lai và Ðak Lak ở Tây
Nguyên. Chưõng trình cấp cứu ngoại
tuyến giải quyết 3 ưu tiên rõ rệt,
ðó là: hỗ trợ tài chính cho
các nhu cầu cấp cứu y tế của nạn
nhân tuỳ từng trường hợp, kể cả
trả tiền cho một số thủ tục y tế
ðặc biệt; cung cấp phưõng tiện
vận chuyển nếu cần cho các bệnh viện
khu vực ðể phục vụ cho cấc
chưõng trình PHCN ðặc biệt; và,
hỗ trợ tài chính cho các gia ðình
nạn nhân, với mục tiêu ngăn ngừa
sự suy sụp về kinh tế trong giai đoạn
khó khăn sau khi xảy ra tai nạn. CPI còn
hỗ trợ học bổng cho các em bị
thưõng tật do bom mìn hoặc cho các em
có bố mẹ bị thưõng tật ðể
các em có thể tiếp tục ði học.
Nãm 2003, CPI ðã hỗ trợ cấp cứu cho 53
vụ tai nạn; mỗi gia đình nhận
ðược một khoản trợ cấp ðể
ổn ðịnh cuộc sống, chi phí y tế
tuỳ theo nhu cầu, cộng thêm một khoản
phụ phí nhỏ cho nạn nhân và
người chãm sóc trong thời gian ðiều
trị. Thêm vào ðó, CPI còn hỗ
trợ chãm sóc dựa vào cộng ðồng
cho các gia ðình nạn nhân ở huyện
Vĩnh Linh, Quảng Trị và huyện Lệ Thủy,
Quảng Bình; 60 gia đình đã
ðược trợ giúp trong nãm 2003 trên
tổng số 500 gia ðình ðược xác
ðịnh là cần ðược trợ giúp.
Nãm 2001 và 2002, CPI ðã hỗ trợ hõn
290 nạn nhân và gia ðình nạn nhân bom
mìn.[138]
Tháng 6/2003, một ðội Cấp cứu tai
nạn và hỗ trợ nạn nhân bom mìn
(BRAVA) gồm 16 bác sĩ và y tá của
Hải quân Mỹ ðã lần ðầu tiên
ðến Việt Nam,thực hiện phẫu thuật cho 40
nạn nhân bom mìn và những người
tàn tật khác. Tuy nhiên, một số nạn
nhân bom mìn ðược biết ðã
không tận dụng ðược cõ hội
ðiều trị miễn phí này do không
ðủ tiền mua vé tàu hỏa từ ccs
tỉnh xa về Hà
Nội.[139]
Nãm 2001, chưõng trình PHCN dựa vào
cộng đồng đã ðược mở
rộng từ 40 lên 45 tỉnh và ðến
cuối nãm 2003 là 46 trên 61 tỉnh, thành
phố. 56 bệnh viện tỉnh, thành phố
ðã có khoa PHCN. Các chưõng trình
đều do Bộ Y tế hoặc Quỹ Bảo trợ
trẻ em quản lư. Những khó khăn về
kinh phí và việc thiếu tài liệu
giảng dạy và tập huấn viên có kinh
nghiệm ðược xem là những nguyên
nhân khiến chưõng trình không
ðược nhân rộng ra tất cả các
tỉnh, thành phố. Bộ Y tế ước
tính 80-90% người tàn tật ở các
tỉnh có chưõng trình PHCN dựa vào
cộng ðồng có chút ít khả nãng
tiếp cận các cõ sở này. Tuy nhiên,
phần lớn các nhu cầu PHCN là ở cấp
huyện và xã; trong khi ở ðó chỉ
có 1% cõ sở PHCN. Ngoài việc cung cấp
các dịch vụ PHCN y tế cõ bản,
chưõng trình CBR còn chú trọng
ðến các chưõng trình ðào
tạo dạy nghề và tái hòa nhập
xã hội cho người tàn
tật.[140]
Ủy ban Chữ thập ðỏ Quốc tế (ICRC)
thực hiện một chưõng trình sản
xuất nẹp chỉnh hình ở Việt Nam từ
nãm 1998 tại Trung tâm PHCN thành phố Hồ
Chí Minh (Trung tâm TP. HCM) với sự hợp
tác của Bộ LÐTBXH. Từ nãm 1995,
chưõng trình này đã
ðược Quỹ ðặc biệt dành cho
người tàn tật của ICRC tài trợ.
Chưõng trình còn hỗ trợ 6 trung
tâm chân tay giả ở các tỉnh miền
Trung và miền Nam là Ðà Nẵng, Cần
Thõ, Bình Định, Nghệ An, Thanh Hoá,
và Kon Tum. Chưõng trình hỗ trợ chi
phí cho lần làm chân tay giả ðầu
tiên cho những người tàn tật
ðược coi là “nghèo túng”
(những người không ðược nhà
nước trợ cấp). Chi phí làm chân
giả dưới gối cao gấp hai lần mức
lưõng tháng trung bình. Những
người tàn tật ðến từ các
tỉnh lân cận ðược thu xếp chỗ
ở miễn phí và ðược thanh toán
chi phí ði lại và tiền ãn. Các trung
tâm của ICRC ở thành phố Hồ chí Minh
và Ðà Nẵng cung cấp các phụ
kiện bằng polypropylene ðể làm nẹp
chỉnh hình trên cả nước. Hội
Chữ thập ðỏ Việt Nam (Hộ CTÐVN) chịu
trách nhiệm xác ðịnh những
người tàn tật có nhu cầu về
dịch vụ này. Nãm 2003, các trung tâm do
ICRC tài trợ ðã sản xuất 4.234 chân
tay giả, trong ðó có 3.399 cái
ðược cấp miễn phí cho những
người tàn tật nghèo; khoảng 1.500
người là nạn nhân bom mìn. Các
trung tâm còn phân phát 3.400 ðôi nạng
và 542 xe lãn qua mạng lưới của Hội
CTÐVN.[141] Trong
khoảng thời gian từ nãm 2000 ðến 2002,
các trung tâm ðược ICRC hỗ trợ
đã sản xuất 7.403 chân tay giả (4.234
cái cho người tàn tật nghèo), trong
số ðó có ít nhất 1.125 cái cho
nạn nhân bom mìn; 2.920 cái (1.992 cái cho
người tàn tật nghèo) trong nãm 2002;
2.404 cái (1.218 cái cho người tàn tật
nghèo) trong nãm 2001; 2.079 cái trong nãm 2000
(1.024 cái cho người tàn tật
nghèo).[142] Một
Thỏa thuận hợp tác ba bên kư với
Bộ LÐTBXH và Hội CTÐVN nãm 2004 ðã
giúp kéo dài sự hỗ trợ của ICRC cho
Viện Khoa học Chỉnh hình và PHCN tại
Hà Nội.[143] ICRC
hiện còn hỗ trợ ðào tạo kỹ
thuật viên chỉnh hình, kể cả
chưõng trình ðào tạo chính quy 3
nãm tại Trung tâm ðào tạo kỹ
thuật viên chỉnh hình của Bộ LÐTBXH
ở Hà Nội
(VIETCOT).[144]
Tổ chức Prosthetics Outreach Foundation (POF) của Mỹ
hiện đang hỗ trợ Trung tâm Chỉnh hình
ngoại tuyến ở Hà Nội và Trung tâm
Kỹ thuật Chỉnh hình ba Vì ở Hà
Tây, cũng như các trung tâm PHCN và
phòng khám lắp ráp chân tay giả ở
Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Ninh, và Thái
Bình. Hầu hết người tàn tật
ðược tiếp cận thông qua chưõng
trình ðiều trị ngoại tuyến; 400
người gồm cả nam, nữ và trẻ em
ðược nhận chân tay giả mới và
thêm 100 chân tay giả ðược sửa
chữa hoặc thay mới mỗi nãm. Dự án
còn ðào tạo kỹ thuật viên làm
chân tay giả tại ðịa phưõng và
nhận ðược tài trợ từ Quỹ
Nạn nhân chiến tranh mang tên Leahy của
Chính phủ
Mỹ.[145]
Tổ chức VNAH trợ giúp 5 trung tâm PHCN ở
Cần Thõ, thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Ðịnh, Ðà Nẵng và Hà
Tây. Nãm 2003, 62.500 ðô-la ðã
ðược tài trợ ðể sản xuất
chân tay giả, nẹp chỉnh hình và xe
lăn cho các nạn nhân bom mìn ở tỉnh
Quảng Bình.[146]
Tại tỉnh láng giềng Quảng Trị, với
sự phối hợp của Hội CTĐVN, VNAH
đã trao tặng 600 xe lãn và 1.700 chân tay
giả.[147] Năm 2002,
VNAH đã trao tặng 2.500 xe lãn tay, xe ba bánh
và chân tay
giả.[148]
Quỹ Cựu chiến binh Mỹ (VVAF) đã cung
cấp hõn 10.000 nẹp chỉnh hình cho 7.000
người ở 10 tỉnh miền Bắc kể từ
nãm 1994 và tài trợ kinh phí cho các
trung tâm PHCN tại Hà Nội, Hà Giang và
Nam Ðịnh. Trong nãm 2003-04, một dự án
hỗ trợ người khuyết tật về vận
ðộng trị giá 2,6 triệu ðô-la do USAID
tài trợ ðã ðược triển khai. VVAF,
cùng với Công ty Ô-tô Ford, ðã
triển khai chưõng trình điều trị
ngoại tuyến trong nãm 1999. Với những chiếc
xe tải ðược thiết kế theo yêu cầu
do Công ty Ford tài trợ, chưõng trình
này đã ðến ðược với 8
tỉnh, ðo và làm nẹp chỉnh hình cho
gần 500
người.[149]
Tổ chức HI đã thực hiện một
chưõng trình PHCN dựa vào cộng
đồng cho các nạn nhân bom mìn ở
tỉnh Quảng Trị cho ðến cuối nãm 2001.
Chưõng trình dựa vào mạng
lưới tình nguyện viên tại cộng
ðồng và chãm sóc người tàn
tật ở cùng khu phố. Hiện chưõng
trình vẫn tiếp tục và hoàn toàn
tự hoạt động sau khi đã tập huấn
cho 11 bác sĩ và và kỹ thuật viên
vật lư trị liệu. Những người
này hiện có ðủ khả nãng ðể
làm công tác tập huấn cho những
người giám sát và các cộng
tác viên tại cộng
ðồng.[150]
Tổ chức Peace Trees Vietnam đã hoạt
ðộng ở Quảng Trị từ nãm 1996 và
hỗ trợ chi phí ãn uống, thuốc men
và phưõng tiện ði lại ðến
các bệnh viện tỉnh và phòng khám
PHCN khu vực cho các nạn nhân tuỳ từng
trường hợp cụ thể. Peace Trees Vietnam
hiện ðang trao ðổi với các nạn nhân
và gia ðình nạn nhân ðể xây
dựng kế hoạch hành ðộng dài hạn
nhằm giúp họ giảm bớt gánh nặng
về tài chính. Peace Trees Vietnam còn trợ
giúp lâu dài cho các gia đình nạn
nhân khi cần thiết, tuy nhiên, mục tiêu
chính là giúp họ đủ khả năng
tự lo liệu cuộc sống. Năm 2003, Peace Trees
Vietnam đã hỗ trợ 23 nạn nhân bm là
trẻ em. Khoản hỗ trợ này bao gồm 400
ðô-la tiền học phí, mua sách vở
và xe lãn. Ðối với các nạn
nhân là người lớn, Peace Trees Vietnam
phối hợp với Hội Phụ nữ tiến
hành một chưõng trình tín dụng
nhỏ cho vay vốn với nguồn vốn quay vòng
là 38.000
đô-la.[151]
Tổ chức VVMF và Dự án RENEW tiến
hành một chưõng trình hỗ trợ
nạn nhân ở huyện Triệu Phong, Quảng
Trị, từ năm 2001. Dự án RENEW đã
nâng cấp cõ sở vật chất cho 19 trạm y
tế ở Triệu Phong, cung cấp trang thiết bị y
tế và tập huấn về công tác cấp
cứu ðối với các nạn nhân bom
mìn; 245 nhân viên y tế ðịa
phưõng ðã ðược tập huấn.
Dự án còn đang tham vấn với các
nạn nhân bom mìn trên toàn huyện
Triệu Phong ðể thiết kế các
chưõng trình mới nhằm giúp họ tham
gia trở lại vào lực lượng lao
ðộng. Tháng 7/2001, Dự án RENEW ðã
thực hiện một chưõng trình
hướng dẫn các nạn nhân bom mìn
trồng nấm ãn tại nhà ðể cung cấp
cho các chợ ðầu mối bán buôn.
Tháng 3/2002, 50 gia ðình nạn nhân đã
tham gia khoá tập huấn. Đến năm 2003,
dự án trồng nấm đã mở rộng ra
100 hộ gia đình. 60 gia đình khác ở
3 xã đã ðược nhận vốn vay
thông qua Hội Phụ
nữ.[152]
Từ năm 2002, Hội CTĐ Mỹ đã phối
hợp với Hội CTÐVN ðể hỗ trợ
người tàn tật ở 10 tỉnh. Trong số
những người ðược hưởng
lợi có cả các nạn nhân bom mìn, tuy
nhiên hồ sõ lưu giữ không ghi nhận
nguyên nhân gây tàn
tật.[153]
Tháng 1/2003, tổ chức LSN đã kư
kết một thỏa thuận 2 năm với UBND huyện
Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình để hỗ
trợ các nạn nhân bom mìn và những
người tàn tật khác. Qua khảo sát
về người tàn tật ðã xác
ðịnh ðược 712 người là nạn
nhân bom mìn và 297 người tàn tật
khác. Tính ðến tháng 3/2004, LSN ðã
hỗ trợ 100 nạn nhân bom mìn, trong ðó
có 32 người là những thành viên
tích cực của mạng lưới nạn
nhân bom mìn thuộc 6 xã. LSN dùng các
nguồn hỗ trợ huy ðộng ðược từ
cộng ðồng ðể giúp các nạn
nhân cải thiện tình hình sức khỏe,
ðiều kiện sống và hòa nhập về
KT-XH.[154] Mỗi xã
có một Hội Hỗ trợ người tàn
tật có ðãng kư, song hạn chế về
nguồn lực. Ở cấp tỉnh, các hội
thường tổ chức các hoạt ðộng
từ thiện và các lễ hội ðể
hỗ trợ người tàn tật, giúp
những người bình thường khác
hiểu và chấp nhận những người
tàn tật
hõn.[155]
Tổ chức PCP Kids First của Mỹ hiện đang
trợ giúp các nạn nhân bom mìn ở
tỉnh Quảng Trị thôgn qua một chưõng
trình học bổng cho trẻ em nghèo, trong
đó có 100 học sinh bị các khuyết
tật do chiến tranh. Kids First còn tài trợ
xây dựng trường tiểu học Sông
Hiếu ở thị xã Ðông Hà,
trường tiểu học ðầu tiên trong cả
nước ðược thiết kế phù
hợp cho người tàn tật. Vào ngày
1/3/2003, công trình Làng PHCN của tổ chức
Kids First trị giá 2,268 triệu đô-la ở
thị xã Ðông Hà, Quảng Trị,
ðã ðược khởi công xây dựng.
Ðây sẽ là nõi ðào tạo thanh
thiếu niên khuyết tật và có hoàn
cảnh khó khãn về các kỹ nãng kinh
doanh, công nghệ thông tin, nhân viên phục
vụ, nghề mộc, nghề cõ khí và
nông nghiệp. Làng sẽ liên kết với
các tổ chức PCP khác nhằm ðáp
ứng nhu cầu về y tế và dạy nghề cho
200-250 nạn nhân bom mìn và các trẻ em
khác bị tàn tật do nguyên nhân chiến
tranh sinh sống tại trung
tâm.[156]
Tổ chức PCP Health Volunteers Overseas (HVO) của Mỹ
đã hoạt động ở Việt Nam từ
tháng 9/1992. Dự án PHCN Việt Nam của HVO
nhằm mục ðích nâng cao chất
lượng của các dịch vụ PHCN và y
tế thông qua hoạt ðộng tập huấn cho
các chuyên gia y tế trong lĩnh vực y học,
ðiều dưỡng PHCN và vật lư trị
liệu. Chưõng trình còn bao gồm cả
hoạt động nâng cao nãng lực cho các
tổ chức PHCN ðịa phưõng và do
Quỹ Nạn nhân chiến tranh mang tên Leahy tài
trợ.[157]
Các tổ chức tại ðịa phưõng
cũng hỗ trợ ngưòi tàn tật, trong
đó có các nạn nhân bom mìn,
ðặc biệt là ở phía Nam. Hội Bảo
trợ bệnh nhân nghèo TP. Hồ Chí Minh
đã trao tặng hõn 1.000 xe lãn tại 15
tỉnh trên khắp cả nước trong nãm
2003. Các chưõng trình khác hỗ
trợ kiểm tra sức khỏe và thẻ bảo
hiểm y tế cho người nghèo, với hõn
một triệu người ðược hỗ
trợ kể từ nãm
1999.[158] Nhiều
nhóm từ thiện khác hoạt động
dựa vào các chùa chiền và nhà
thờ Thiên chúa giáo.
Chính sách ðối với người tàn
tật và thực tiễn
Pháp lệnh về Người tàn tật
nãm ðược ban hành nãm 1998 và
có hiệu lực từ ngày 10/07/1999 quy
ðịnh trách nhiệm của chính quyền,
xã hội và gia đình, xác định
rõ các quyền của người tàn
tật về chãm sóc y tế, giáo dục,
việc làm và tham gia các hoạt ðộng
xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện
Pháp lệnh này vẫn còn yếu, thiếu
những cõ chế giám sát và thực
thi.[159] Tháng 8/2003,
Thủ tướng Phan Vãn Khải ðã chỉ
thị cần phải có “những biện
pháp mạnh mẽ” nhằm ðảm bảo
Pháp lệnh ðược thực thi ðầy
ðủ.[160]
Bộ LÐTBXH chịu trách nhiệm về các
hoạt ðộng trợ giúp dài hạn và
PHCN cho các nạn nhân bom mìn và những
người tàn tật khác, với sự
ðóng góp của Bộ GD&ÐT và Bộ Y
tế.
Ngày 22/01/2001, Bộ LĐTBXH đã thành
lập Ban Ðiều phối quốc gia về
người tàn tật
(NCCD).[161] Ở cấp
tỉnh và huyện, chính quyền ðịa
phưõng hoặc UBND có trách nhiệm về
mặt quản lư đối với việc
“chăm sóc và bảo vệ”
người tàn
tật.[162] Phong trào
vì người tàn tật ở Việt Nam
ðang tiếp tục nâng cao sự hiểu biết
và sự thừa nhận của mọi người
dân, từng bước tiến tới sự
bình ðẳng hoàn toàn và những thay
ðổi lớn trong thái ðộ của xã
hội kể từ khi NCCD ðược thành
lập; Sự tiến bộ còn bị hạn chế
trong các lĩnh vực như khả nãng tiếp
cận và việc làm cho người tàn
tật.[163]
Diễn ðàn về người tàn tật,
một sự liên kết của các tổ chức
trong nước, ðược thành lập nãm
1999 và hoạt ðộng nhằm nâng cao nhận
thức về quyền và nhu cầu của
người tàn
tật.[164] Các
thành viên của Diễn ðàn về
người tàn tật, NCCD và các tổ
chức khác hiện ðang tích cực tham gia
các cuộc thảo luận và các hoạt
ðộng chuẩn bị cho Công ước Quốc
tế về Người tàn
tật.[165]
Việt Nam đã tham dự Hội nghị khu
vực châu Á-Thái Bình Dưõng
về hỗ trợ nạn nhân bom mìn tổ
chức tại Bangkok từ 6-8/11/2001.
[1] Tuyên bố của phía
Việt Nam, Hội nghị kư kết Hiệp
ước/Diễn ðàn phòng chống bom
mìn, Ốt-ta-oa, 2-4/12/1997. [2]
Ðôn Tuấn Phong, Ban Ðiều phối Viện
trợ Nhân dân, phát biểu tại Diễn
ðàn về Cãm-pu-chia, Lào và Việt Nam
tại Phnom Penh, Cãm-pu-chia,
26-29/01/1999. [3] Bộ Ngoại
giao, “Vấn đề Mìn sát
thưõng”, 2/03/2000. [4]
Phát biểu miệng. Ghi chép của Elizabeth
Bernstein, Ðiều phối viên Phong trào Quốc
tế về Cấm Mìn. [5]
Phỏng vấn Vũ Trần Phong, Vụ Các tổ
chức quốc tế, Bộ Ngoại giao, Băng-cốc,
19/09/2003. [6] Ðại tá
Bùi Minh Tâm và Nguyễn Thị Xuân
Hưõng, “Tổng quan về công nghệ
và kinh nghiệm rà phá bom mìn ở
Việt Nam”, “Việt Nam: Hợp tác quốc
tế: Triển vọng cấp tỉnh: Hoạt
động phòng chống bom mìn lồng ghép
và sự tham gia của cộng ðồng,”
các tham luận ðược trình bày
tại Hội thảo về Công nghệ và
Hợp tác trong lĩnh vực rà phá bom
mìn nhân ðạo, Côn Minh, Trung Quốc,
26-28/04/2004; bài trình bày của Hoàng Nam,
Ðiều phối viên, Dự án RENEW, Nhóm
Công tác về bom mìn, Hà Nội,
25/06/2004. [7] Phỏng vấn
Nguyễn Bá Hùng, Vụ phó, Vụ Châu
Mỹ, Bộ Ngoại giao, Hà Nội,
16/04/2004. [8] Phỏng vấn
Ðại tá Bùi Minh Tâm, Bộ Quốc
phòng, hà Nội,
15/03/2000. [9] Stephen D. Biddle,
“Bom mìn ở châu Á,” tham luận
tại Hội nghị về Bom mìn ở Phnom Penh,
1995. [10] Xem Báo cáo
về tình hình bom mìn năm 1999, tr. 513.
Việt nam đã sản xuất các loại
mìn mảnh MBV78A1, mìn mảnh MBV78A2, mìn MN79
và MB82B, mìn ðịnh hướng claymo MDH10,
mìn mảnh NOMZ2B và mìn táo
P40. [11] Xem Báo cáo
về tình hình bom mìn năm 2001, tr.
583. [12] Tuyên bố của
Việt Nam, Hội nghị kư kết Hiệp
ước Cấm Mìn / Diễn ðàn Phòng
chống bom mìn, Ốt-ta-oa,
2-4/12/1997. [13] Công vãn
từ Nguyễn Mạnh Hùng, Vụ trưởng,
Vụ Châu Mỹ, Bộ Ngoại giao, 8/03/2001. Tài
liệu nghiên cứu chính sách nội bộ do
Bộ Ngoại giao cung cấp cho Landmine Monitor, “Vấn
ðề mìn sát thưõng,” 2/03/2000,
cũng tuyên bố rằng Việt Nam chưa từng
và sẽ không bao giờ xuất khẩu mìn
sát thưõng. [14]
Tổ chức Quan sát Nhân quyền, Bom mìn:
Một di sản chết người, 1993, tr. 103-4; Paul
Davies, Cuộc chiến của những trái mìn,
1994, tr. 13-19, 44. [15] An-gô-la,
Điều 7 của Báo cáo, tr.
30. [16] Ví dụ, các
nhóm sắc tộc ở Miến Điện cho
biết tìm thấy các loại mìn M-14
kiểu Mỹ do Việt Nam sản xuất trên biên
giới Thái Lan-Miến Điện. Xem Báo
cáo về tình hình bom mìn năm 2000, tr.
541-542. [17] Phỏng vấn
Thiếu tướng Vũ Tần, Bộ Quốc
phòng, Hà Nội,
13/05/2003. [18] Xem Báo cáo
về tình hình bom mìn năm 2000, tr. 542. BOMICO
là một ðõn vị của Bộ tư
lệnh Công binh thuộc Bộ Quốc
phòng. [19] Xem Báo
cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr.
717. [20] “Giới thiệu
tổng quát về công nghệ rà phá bom
mìn,” bài thuyết trình tại Hội
thảo Côn Minh, 26-28/04/2004. Để đối
chiếu, xem Báo cáo về tình hình bom
mìn năm 2003, tr. 717-8. [21]
Trích dẫn lời David Holdridge trong bài
“Các tổ chức Việt Nam và Mỹ
hợp tác ðiều tra tình hình bom
mìn,” Báo Vietnam News,
29/01/2003. [22] Ðại tá
Bùi Minh Tâm, “Cuộc chiến ðấu sau
chiến tranh”, Sự kiện & Nhân chứng
(tạp chí quân ðội số ra hàng
tháng), không rõ thời gian, tr. 17, 31;
“Các hoạt ðộng và những thách
thức trong hoạt ðộng rà phá bom mìn
ở Việt Nam”, bài chưa ðãng,
2/2002. [23] Landmine Monitor thu
thập thông tin từ báo chí Việt Nam
và nước
ngoài. [24] Phỏng vấn
Thiếu tướng Vũ Tần, Bộ Quốc
phòng, Hà Nội,
13/05/12003. [25] Ví dụ, 10
tỉnh bị ném bom nhiều nhất theo thứ
tự là Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế,
Quảng Nam, Kon Tum, Quảng Bình, Bình
Phước, Tây Ninh, Bình Dưõng, Gia Lai,
và Quảng Ngãi. Số liệu do Michael Sheinkman
cung cấp, VVAF, 16/05/2004. [26]
Dự án RENEW, “Báo cáo Khảo sát
về tác động của mìn và VLCN ở
huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, Việt
Nam”, 11/2003, tr. 45-7; Dự án RENEW và Sở Y
tế tỉnh Quảng Trị, “Nghiên cứu
về sự Hiểu biết-Nhận thức–hành
vi ðối với hiểm hoạ bom mìn sau chiến
tranh và tai nạn do bom mìn gây ra ở tỉnh
Quảng Trị, Việt Nam”, 11/2003, tr.
28. [27] Phỏng vấn
Nguyễn Quang Vinh, Trưởng ban, và Ðại
sứ Nguyễn Quư Bình, Phó Trưởng
ban, Ban Biên giới của Chính phủ, Bộ
Ngoại giao, Hà Nội,
16/05/2003. [28] Dự án RENEW
và UNICEF, Khảo sát về mức ðộ
hiểu biết-Nhận thức-Hành vi, sắp xuất
bản; Ủy ban 10-80, “Kết quả Khảo sát
về tình hình và nạn nhân bom mìn
ở A Lưới,” 2001, tr.
15-16. [29] Công An TP. Hồ
Chí Minh (báo ra hàng ngày), 21/12/2002, tr. 1;
Người Lao Ðộng (báo ra hàng ngày),
16/12/2002, tr. 4. [30] Phòng
vấn Trần Khánh Phôi, Ðiều phối
viên Chưõng trình, tổ chức MAG,
Quảng Trị, 30/03/2004. [31]
Dự án RENEW và Quảng Trị, “Khảo
sát về mức độ hiểu biết ...,”
11/2003, tr. 10, 32. [32] Phỏng
vấn Nguyễn Quang Vinh và Nguyễn Quư Bình,
Bộ Ngoại giao,
16/05/2003. [33] Báo cáo
về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 719, 721;
Báo cáo về tình hình bom mìn năm
2001, tr. 583, 587. [34] Landmine Monitor
hiện có nhiều thêm nhiều báo cáo
về những người thu nhặt sắt thép
phế liệu. [35] Dự
án RENEW, “Khảo sát ở Huyện Triệu
Phong,” 11/2003, tr. 62. [36]
“Dùng bom ðánh cá ngay trước
mắt những người dân ðịa
phưõng,” Báo Vietnam News, 19/09/2002; “Bom thu
ðược từ tàu chiến Mỹ bị
ðắm,” Báo Tiền Phong (báo ra hàng
ngày), 12/03/2003, tr. 2; Sài Gòn Giải Phóng
(báo ra hàng ngày), 12/03/2003, tr.
6. [37] Báo cáo về
tình hình bom mìn năm 2002, tr. 782; Báo
cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr.
720. [38] VVAF, “Ðiều tra
và ðánh giá tác ðộng của
mìn và VLCN ở Việt Nam”, tờ giới
thiệu; Vinh Nguyễn, “Hợp tác cùng
giải quyết di chứng bom mìn sau chiến
tranh,” Báo Lao Động,
26/02/2004. [39] Phỏng vấn Guy
Rhodes, Giám ðốc chưõng trình, VVAF,
Hà Nội, 22/04/2004. [40]
VVAF, “Khảo sát và ðánh giá
tác ðộng của mìn và VLCN ở Việt
Nam.” [41] Ví dụ, xem
David Lamb, “Mỹ ðang xây dựng một mối
quan hệ quân sự chưa từng có với
Việt Nam”, Los Angeles Times,
9/04/2004. [42] Bài thuyết
trình của Guy Rhodes và Michael Sheinkman, VVAF, Nhóm
công tác về bom mìn, Hà Nội,
20/12/2004. [43] Những phát
hiện ban ðầu quan hai cuộc khảo sát
này ðã ðược trình bày trong
Báo cáo về tình hình bom mìn năm
2003, tr. 719-20, 725. [44] Dự
án RENEW, “Khảo sát ở huyện Triệu
Phong,” 11/2003, tr. 28-9. [45]
“Kết quả cuộc khảo sát ðầu
tiên của Mỹ về tình hình bom
mìn,” Báo Viet Nam News,
27/11/2003. [46] Phỏng vấn
Trần Vãn Tuấn, Phó Giám ðốc, Sở
Lao ðộng-Thưõng binh-Xã hội tỉnh
Quảng Bình, Hà Nội,
26/03/2004. [47] Tổ chức
Handicap International Belgium, Bản tin, TP, Hồ Chí Minh,
Quư II/2003. [48] Thông tin
do Nguyễn Thị Y Duyên cung cấp, Chưõng
trình Phòng chống thưõng tật cho
trẻ em, UNICEF, Hà Nội,
13/04/2004. [49] Ðể biết
thêm chi tiết, xem Báo cáo về tình
hình bom mìn năm 2003, tr.
719. [50] Phỏng vấn Trần
Khánh Phôi, MAG,
30/03/2004. [51] UNMAS, “Hồ
sõ về các dự án phòng chống bom
mìn 2004,” tr. 364. [52]
Như trên, tr. 364-5,
372. [53] Thông tin do Nick
Proudman, Giám ðốc Chưõng trình, MAG, cung
cấp, 21/04/2004. [54] Nguyễn
Minh Kỳ, “Cần thành lập một trung tâm
ðể khắc phục hậu quả chiến tranh,”
Lao Động, 15/12/2002. [55]
Phỏng vấn Hoàng Nam, Ðiều phối viên,
Dự án RENEW, Quảng Trị,
30/03/2004. [56] Phỏng vấn
Gerd Wilkommen, Giám sát kỹ thuật cao cấp, SODI,
Quảng Trị, 31/03/2004; Ủy ban nhân dân tỉnh
Thừa Thiên-Huế, bài trình bày tại
Hội nghị quốc tế về hợp tác
giữa Việt Nam và các tổ chức PCP
quốc tế, Hà Nội,
19/11/2003. [57] Báo cáo
về tình hình bom mìn năm 2003, tr.
721. [58] Phỏng vấn Trần
Khánh Phôi, MAG,
30/03/2004. [59] Phỏng vấn Guy
Rhodes, VVAF, Hà Nội,
20/02/2004. [60] Phỏng vấn
một nguồn tin của Chính phủ Mỹ, Hà
Nội, 17/03/2004. [61] Phỏng
vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Cục
trưởng Cục Ðối ngoại, Bộ Quốc
phòng, Hà Nội, 13/05/2003; thông tin từ VVAF,
23/05/2003. [62] Phỏng vấn
Nguyễn Ngọc Quư, Sở Ngoại vụ tinh
Quảng Bình, Đồng Hới,
26/03/2004. [63] Phỏng vấn
Nguyễn Quang Vinh và Nguyễn Quư Bình, Bộ
Ngoại giao, 16/05/2003. [64]
“Ðoàn công tác về vấn ðề
biên giới của Bộ [Ngoại giao] kiểm tra
và làm việc tại hai tỉnh Lai Châu
và Lạng Sõn,” Quốc Tế (Báo ra
hàng tuần),
24-30/04/2003. [65] Dự án
RENEW là một nỗ lực chung của Ủy ban
nhân dân tỉnh Quảng Trị và Quỹ
Tưởng niệm Cựu chiến binh Mỹ VVMF
(Mỹ). [66] Số liệu do
Trần Khánh Phôi cung cấp, MAG, Quảng Trị,
31/03/2004. [67] “Tổ
chức phi chính phủ Anh giúp Quảng Bình
rà phá bom mìn,” Tin Tức (báo ra
hàng ngày), 10/03/2004, tr.
5. [68] Phỏng vấn Trần
Khánh Phôi, MAG, 30/03/2004; Thư điện tử
từ Tim Carstairs, Giám đốc phụ trách
chính sách, MAG,
6/10/2004. [69] Thông tin do Nick
Proudman cung cấp, MAG, 21/04/2004; thư ðiện tử
từ Tim Carstairs, MAG,
6/10/2004. [70] Thông tin do Nick
Proudman cung cấp, MAG,
21/04/2004. [71] Phỏng vấn
Nguyễn Ngọc Quư, tỉnh Quảng Bình,
26/03/2004. [72] Thông tin do Nick
Proudman cung cấp, MAG,
21/04/2004. [73] “Gần 24.000
quả mìn ðược rà phá ở
tỉnh Quảng Trị,” Lao Động,
27/09/2003. [74] Thông tin do Ilona
Schleicher cung cấp, Văn phòng Đối ngoại,
SODI, Berlin, 13/07/2004 [75] Thông
tin từ Lutz Vogt, Chủ tịch, Potsdam Kommunikation,
13/07/2004. [76] Ngọc Mai,
“Phong trào giải phóng ðất ðai
khỏi bom mìn ðược Ðức hỗ trợ
1 triệu ðô-la ,” Báo Vietnam Investment Review,
16-22/02/2004, tr. 14. [77]
“Ðức hỗ trợ 1 triệu ðô-la cho
hoạt ðộng rà phá bom mìn ở Việt
Nam” Báo Lao Động,
13/02/2004. [78] Thông tin từ
Lutz Vogt, Chủ tịch, Potsdam Kommunikation,
13/07/2004. [79] Thông tin do
Brendan Cantlon, Ðiều phối viên dự án,
Dự án rà phá bom mìn và phát
triển cộng ðồng ở Thừa Thiên-Huế
cung cấp, 13/07/2004; “Úc giúp một tỉnh
miền Trung rà phá vật liệu nổ,”
Báo Viet Nam News, 8/05/2003. [80]
Phỏng vấn Chuck Searcy, Quỹ Tưởng niệm
cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam (VVMF), Hà
Nội, 8/04/2004. [81] Hoài
Nam, “Những người lính công binh
kiên trì giúp Quảng Trị thoát khỏi
các loại vật liệu chưa nổ,”
Báo Viet Nam News, 19/04/2004. [82]
Phỏng vấn Chuck Searcy, VVMF, Hà Nội,
21/04/2004. [83] Dự án RENEW
và Quảng Trị, “Khảo sát về mức
ðộ hiểu biết ...,” 11/2003, tr. 30-1, 42-4. Tuy
nhiên, kết quả ðánh giá ban ðầu
dự án GDPTBM trong nhà trường của
tổ chức Catholic Relief Services (CRS) lại cho thấy trao
ðổi trực tiếp thông quan cộng ðồng
có thể có hiệu quả hõn trong việc
làm thay ðổi hành vi so với sử dụng
các phưõng tiện thông tin ðại
chúng. Phỏng vấn Ðặng Hưõng Giang,
Trưởng nhóm ðánh giá, CRS, Quảng
Trị, 1/04/2004. [84] Phỏng
vấn Trần Văn Tuấn, tỉnh Quảng Bình,
26/03/2004. [85] Phỏng vấn
Nguyễn Thị Y Duyên, UNICEF, Hà Nội,
15/04/2004. [86] Thông tin do
Nguyễn Thị Y Duyên cung cấp, UNICEF, Hà
Nội, 13/04/2004. [87] Phỏng
vấn Trần Văn Tuấn, tỉnh Quảng Bình,
26/03/2004. [88] Phỏng vấn
Hoàng Nam, Dự án RENEW, 30/03/2004; Dự án
RENEW, “Khảo sát ở huyện Triệu
Phong”, 11/2003, tr. 27. [89]
Bài thuyết trình của Dưõng Trọng
Huế, Dự án RENEW, và Isabelle Bardem, UNICEF,
tại cuộc họp Nhóm công tác về bom
mìn, Hà Nội,
20/02/2004. [90] Xem Báo cáo
về tình hình bom mìn năm 2002, tr. 783-784,
và Báo cáo về tình hình bom mìn
năm 2003, tr. 724. [91] Bài
thuyết trình của Thái Thị Hạnh Nhân,
Trợ lư dự án, CRS, Nhóm Công tác
về bom mìn, Hà Nội,
20/02/2004. [92] Thư ðiện
tử từ Chuck Meadows, Giám ðốc ðiều
hành, PeaceTrees Vietnam,
12/05/2003. [93] Thư ðiện
tử từ Chuck Meadows, PeaceTrees Vietnam,
1/07/2004. [94] Hoài Nam,
“Rà phá bom mìn trên sân
trường,” Báo Viet Nam News, 1/04/2004; Việt
Thắng, “Lời cảnh báo từ các
thư viện,” Báo Viet Nam News,
16/09/2003. [95] Thông tin từ
Ilona Schleicher, SODI, 8/07/2004. [96]
Thông tin từ Lutz Vogt, Chủ tịch, Potsdam Kommunikation,
13/07/2004. [97] Thông tin do
Brendan Cantlon cung cấp, Dự án rà phá
vật liệu chưa nổ,
6/03/2004. [98] Thông tin từ
Bùi Vãn Toàn, Giám đốc tại
Việt Nam, VNAH, 6/07/2004. [99]
Bài thuyết trình của Nguyễn Mai
Phưõng, Cán bộ dự án, VNAH, Nhóm
Công tác về bom mìn, Hà Nội, 20/02/2004;
UNMAS, “Hồ sõ các dự án phòng
chống bom mìn”, tr.
371. [100] Bài thuyết
trình của David Boisson, Đại diện, HI, Nhóm
Công tác về bom mìn, Hà Nội,
20/02/2004. [101] Ðại
tá Bùi Minh Tâm, Giám ðốc, BOMICO,
“Hoạt ðộng và những thách thức
trong hoạt ðộng rà phá bom mìn ở
Việt Nam”, báo cáo tóm tắt,
ðược chỉnh sửa tháng
2/2002. [102] Như trên.
Tính toán này dựa trên tỷ lệ 8%
ðất nước bị nhiễm bom mìn (=26.500
km2) và mức chi phí rà phá 1 héc-ta
của quân ðội (2.300 ðô-la/ha). Hoạt
ðộng hỗ trợ nạn nhân ước
tình cần 100 đô-la/nam trong 10 năm; không
rõ cõ sở ðể ðưa ra con số
này, song phải lên ðến gần 1.500
ðô-la/nạn nhân
. [103] Phỏng vấn một
nguồn của Chính phủ Mỹ,
21/04/2004. [104] USAID,
“Quỹ hỗ trợ nạn nhân chiến tranh mang
tên Patrick J. Leahy, Tóm tắt hố sõ hoạt
ðộng,” Mùa Xuân 2004, tr.
57. [105] Thông tin do Don
Townsend, Cố vấn, LSN cung cấp,
17/03/2004. [106] “GTZ ở
Việt Nam,” hiện có tại địa chỉ
gtz.de. [107] Tỷ giá:
A$=$0.652. Cục Dự trữ liên bang Mỹ, “Danh
mục các tỷ giá hối ðoái (hàng
nãm),” 5/01/2004. [108]
Thông tin do Brendan Cantlon, Dự án rà phá bom
mìn, cung cấp,
603/2004. [109] Phỏng vấn
Nguyễn Hoàng Hoa, Ban Kinh tế, Sứ quán
Nhật Bản, Hà Nội, 16/09/2003 và
21/04/2004. [110] Phỏng vấn
Chuck Searcy, VVMF, Hà Nội,
21/04/2004. [111] Như trên;
phỏng vấn chuyên gia tư vấn xây dựng
của ADB, Huế,
19/04/2003. [112] Tổ chức
CPI đã hỗ trợ cấp cứu 53 vụ tai
nạn bom mìn ở 10 tỉnh trong nãm 2003 khiến
31 người chết và 71 người bị
thưõng. Số liệu do Hugh Hosman, Trưởng
Ðại diện, CPI, cung cấp, 26/04/2004. Landmine Monitor ghi
nhận có 62 người chết và 95
người bị thưõng do bom mìn trong
nãm 2003. Trong cả hai trường hợp ðều
ghi nhận có sự gia tãng số vụ tai
nạn. [113] BOMICO,
“Tình hình ảnh hưởng của bom
mìn và vật liệu nổ do chiến tranh
để lại,” dự thảo báo cáo do
VVAF cung cấp, 2003, tr. 7. [114]
“Khái quát về công nghệ rà
phá bom mìn,” bài trình bày tại
Hội thảo Côn Minh,
26-28/04/2004. [115] “Việt
Nam cùng các cựu chiến binh Mỹ tiến
hành khảo sát bom mìn,” Reuters,
23/02/2004. [116] Xem Báo
cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr.
726-727. [117] Phỏng vấn
Hugh Hosman, Clear Path International, Quảng Trị,
31/03/2004. [118] Tổ chức
CPI đã hỗ trợ cấp cứu 20 vụ tai
nạn làm chết 13 người và làm
bị thưõng 28 người khác ở 4
tỉnh. Số liệu do Hugh Hosman, CPI, cung cấp, 26/04/2004.
Landmine Monitor ghi nhận có 35 người chết
và 52 người bị thưõng do tai nạn
bom mìn qua các tin báo chí trong nước.
Trong cả hai trường hợp ðều ghi nhận
có sự gia tãng số vụ tai
nạn. [119] “Ðạn
nổ khiến hai người chết,” Báo Lao
Động, 5/04/2004. [120]
Phỏng vấn Hoàng Ðãng Mai, Giám
ðốc, Sở Ngoại vụ tỉnh Quảng Trị,
17/04/2003. [121] Dự án
RENEW và Quảng Trị, “Khảo sát về
mức ðộ hiểu biết ...”, 11/2003, tr. 20-25,
80. [122] Bài thuyết
trình của Dưõng Trọng Huế, Dự
án RENEW, tại cuộc họp Nhóm Công
tác về bom mìn, Hà Nội, 20/02/2004; Dự
án RENEW và Quảng Trị, “Khảo sát
về mức độ hiểu biết ...,” 11/2003, tr.
28-9, 79; Số liệu do Don Townsend, LSN, cung cấp, 26/03/2004;
Số liệu do Hugh Hosman, CPI, cung cấp,
7/04/2004. [123] Quang Chính,
“Những chiến sĩ mở ðường
ðầy quyết tâm trên con ðường
mòn Hồ Chí Minh,” Viet Nam News,
1/11/2003. [124] Hoài Nam,
“Những người lính công binh kiên
trì giúp Quảng Trị thoát khỏi các
loại vật liệu chưa nổ,” Báo Viet Nam
News, 19/04/2004; Các báo cáo tại cuộc
họp Nhóm Công tác về bom mìn, Hà
Nội, 25/04/2003. [125] “Bom
nổ làm chết một chuyên gia rà phá
bom mìn trên ðường Hồ Chí
Minh,” Reuters (Hà Nội), 2/10/2001.
[126] Huw Watkin, “Con
ðường mang bom cần ðược giúp
tháo gỡ,” South China Morning Post, 24/03/2000; phỏng
vấn qua ðiện thoại với Chuck Searcy, Hà
Nội, 21/04/2000. [127] “25
nãm sau, di chứng chết người của
chiến tranh ở Việt Nam,” Baltimore Sun,
27/04/2000. [128] Dự án
RENEW và Quảng Trị, “Khảo sát về
mức ðộ hiểu biết ...,” 11/2003, tr. 15, 18-19,
72. [129] Ủy ban 10-80,
“Kết quả khảo sát về tình
hình bom mìn và nạn nhân bom mìn ở
A Lướii,” tr.
27. [130] Phỏng vấn
Trần Văn Tuấn, tỉnh Quảng Bình,
26/03/2004. [131] BOMICO,
“Ảnh hưởng của bom mìn và
các loại vật liệu nổ”, dự thảo
báo cáo, 2003, tr. 7. Số liệu này ghi
nhận có thêm 601 người chết và
1.788 người bị thưõng kể từ
tháng 5/1998 so với số liệu ðược
trích dẫn trong các báo cáo trước
ðây về tình hình bom mìn. Xem Báo
cáo về tình hình bom mìn 2001, tr.
589. [132] Bộ LÐTBXH và
UNICEF, “Phân tích tình hình trẻ em
tàn tật ở Việt Nam,” Hà Nội,
11/2003, tr. 47-48. [133] Xem Báo
cáo về tình hình bom mìn năm 2002, tr.
785. [134] Xem Báo cáo
về tình hình bom mìn năm 2003, tr.
727-728. [135] Dự án RENEW
và Quảng Trị, “Khảo sát về mức
ðộ hiểu biết ...,” 11/2003, tr. 31-2; Phỏng
vấn Don Townsend, Cố vấn, LSN, Quảng Bình,
26/03/2004; Báo cáo về tình hình bom
mìn năm 2003, tr. 728. [136]
Dự án RENEW, “Khảo sát ở huyện
Triệu Phong,” 11/2003, tr.
64-6. [137] Xem Báo cáo
về tình hình bom mìn năm 2003, tr.
728. [138] Phỏng vấn Hugh
Hosman, CPI, Quảng Bình, 28/03/2004; Bài thuyết
trình của Hugh Hosman tại cuộc họp Nhóm
Công tác về bom mìn, Hà Nội, 17/01/2003;
phỏng vấn Hugh Hosman, Quảng Trị, 17/04/2003 và
19/03/2002; Martha Hathaway, Giám đốc dự án, CPI,
trả lời bảng hỏi điều tra về hỗ
trợ nạn nhân của Landmine Monitor,
13/03/2002. [139] Hải Vân,
“Hai kẻ thù cũ cùng giúp các
nạn nhân bom mìn phục hồi,” Viet Nam News,
2/07/2003; “Cùng hợp tác thường
xuyên hõn,” Lao Động,
25/06/2003. [140] Nguyễn
Xuân Nghiên, Bài giảng Phục hồi Chức
nãng dựa vào Cộng ðồng (Hà Nội:
Nhà xuất bản Y học, 2004), tr. 19, 26; Bộ
LÐTBXH và UNICEF, “Phân tích tình
hình,” 11/2003, tr. 34; xem thêm Báo cáo
về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 728;
Báo cáo về tình hình bom mìn năm
2002, tr. 785. [141] Số liệu
do Peter Poetsma, ICRC, cung cấp, TP. Hồ Chí Minh,
24/03/2004; Quỹ ðặc biệt dành cho
người tàn tật của ICRC, “Báo
cáo thường niên 2003,” Geneva, 2/2004, tr.
13-16. [142] Quỹ ðặc
biệt dành cho người tàn tật của
ICRC, “Báo cáo thường niên 2002,”
Geneva, 4/2003, tr. 8; “Báo cáo thường
niên 2001,” 05/2002; “Báo cáo
thường niên nãm 2000,” 6/2001; thư
ðiện tử từ Peter Poetsma, ICRC, 2/05/2003; phỏng
vấn Peter Poetsma, Giám ðốc, Chưõng
trình PHCN của ICRC, TP. Hồ Chí Minh,
1/06/2002. [143] ICRC,
“Chưõng trình Chỉnh hình, sự
hợp tác ba bên giữa Bộ LĐTBXH, Hội
CTĐVN và ICRC/SFD”, Báo cáo tóm
tắt, ðược chỉnh sửa tháng
2/2004. [144] VIETCOT do GTZ
(Ðức) tài
trợ. [145] USAID, “Quỹ
Nạn nhân chiến tranh mang tên Patrick J. Leahy: Hồ
sõ hoạt ðộng 2004,” tr. 57; xem thêm trang
thông tin ðiện tử của tổ chức
Prosthetics Outreach Foundation tại địa chỉ
www.pofsea.org [146] Phỏng
vấn Trần Văn Tuân, Quảng Bình, 26/03/2004;
Bài thuyết trình của Nguyễn Mai Phuong, VNAH,
20/02/2004; thư ðiện tử từ Bùi Vãn
Toàn, VNAH, 27/05/2003. [147]
Sở Lao động tỉnh Quảng Trị, “Báo
cáo Tình hình Người Tàn tật
ở tỉnh Quảng Trị”, báo cáo
không ðề ngày, tr.
4. [148] Vietnam News Service,
25/03/2003, tr. 3; Lao Động, 24/03/2003, tr. 3; bản tin VNAH
và HealthEd, mùa thu
2002. [149] Thư ðiện
tử từ Larrie Warren, Giám ðốc, PHCN sau chiến
tranh, VVAF, 24/09/2004. [150]
Báo cáo về tình hình bom mìn năm
2002, tr. 786. [151] Hoài Nam,
“Tháo gỡ mìn trên sân
trường,” Viet Nam News, 1/04/2004; “Hậu quả
tàn khốc của chiến tranh vẫn còn
hiện diện ở tỉnh Quảng Trị,” Viet Nam
News, 13/05/2003; phỏng vấn Quang Lê, Giám
ðốc tại Việt Nam, Peace Trees Vietnam, Quảng
Trị, 16/03/2002. [152] Phỏng
vấn Hoàng Nam, Dự án RENEW, 30/03/2004; Dự
án RENEW, “Khảo sát ở huyện Triệu
Phong,” 11/2003, tr. 28; Thông tin do Dự án RENEW cung
cấp, 18/03/2002. [153] Thư
ðiện tử từ Marcie Friedman, Giám ðốc
tại Việt Nam, Hội CTÐ Mỹ,
20/04/2004. [154] Thông tin do Don
Townsend, LSN, cung cấp, 17 và 26/03/2004; phỏng vấn
Michelle Hecker và Joelle Caschera, LSN, Quảng Bình,
21/04/2003. [155] Phỏng vấn
Don Townsend, LSN, Quảng Bình,
26/03/2004. [156] Phỏng vấn
Nguyễn Đức Tân, Phòng đối ngoại
tỉnh Quảng Trị, Ðông Hà, 31/03/2004;
Hoài Nam, “Một thôn chú trọng công
tác chãm sóc trẻ khuyết tật,” Viet
Nam News, 5/03/2003. [157] USAID,
“Quỹ Nạn nhân chiến tranh mang tên Patrick J
Leahy: 2004,” tr. 56; Linda James, HVO, trả lời bảng
hỏi ðiều tra của Landmine Monitor,
25/02/2002. [158] “Một
tổ chức từ thiện tặng xe lãn cho trẻ
em tàn tật,” Viet Nam News, 18/06/2003; Thế Uyên,
“Ðiều kỳ diệu giữa ðời
thường,” Lao Động, 18/02/2004; Lê Thanh
Hà, “Trao tặng 1.000 xa lãn,” Tuổi
Trẻ (báo ra hàng ngày),
14/11/2003. [159] Bộ LÐTBXH
và UNICEF, “Phân tích tình hình,”
11/2003, tr. 19, 22; Dưõng Thị Vân, Chủ
tịch, “Nhóm Tưõng lai tưõi
sáng cho người khuyết tật: Báo cáo
Việt Nam,” ðược trình bày tại
cuộc họp và thảo luận của nhóm
chuyên gia về Công ước Quốc tế
nhằm bảo vệ và nâng cao quyền và
phẩm giá của người khuyết tật,
Bangkok, 2-4/06/2003; xem thêm Báo cáo về tình
hình bom mìn năm 2003, tr.
731. [160] “Thủ
tướng Phan Vãn Khải kêu gọi dành
nhiều sự chãm sóc hõn nữa cho
người khuyết tật,” Viet Nam News,
2/08/2003. [161] Ðể biết
thêm chi tiết, xem Báo cáo về tình
hình bom mìn năm 2001, tr.
591. [162] Ðiều 16, Nghị
ðịnh số 55/1999/ND-CP (10/07/1999) hướng dẫn
thi hành Pháp
lệnh. [163] “Các quan
chức cho biết Việt Nam là nước chãm
sóc tốt người tàn tật,” Viet Nam
News, 7/04/2004. [164] HI,
“Hỗ trợ nạn nhân bom mìn: Báo
cáo Thế giới năm 2002,” Lyon, 12/2002, tr.
252. [165] Phỏng vấn
Phạm Thị Bình Minh, HVO, Hà Nội, 15/04/2004;
thư ðiện tử từ Dưõng Thị
Vân, Nhóm Tưõng lai tưõi sáng,
15/04/2004.