+   *    +     +     
About Us 
The Issues 
Our Research Products 
Order Publications 
Multimedia 
Press Room 
Resources for Monitor Researchers 
ARCHIVES HOME PAGE 
    >
 
Table of Contents
Country Reports
ViỆt Nam, Landmine Monitor Report 2004

Việt Nam

Những diễn biến chính kể từ tháng 5/2003: Một cuộc khảo sát cấp quốc gia về tác động của bom mìn đã ðược triển khai vào tháng 2/2004. Sáu (06) tổ chức quốc tế ðã rà phá ðược 2,77 triệu m2 ðất trong nãm 2003. Quân ðội và các ðõn vị vũ trang khác tiếp tục tham gia nỗ lực rà phá bom mìn. Chín (09) tổ chức quốc tế đã tiến hành các hoạt ðộng giáo dục về nguy cõ bom mìn trong nãm 2003, ðưa thông tin ðến ðược với hõn 22.900 người. Việt Nam ðã tham dự Cuộc gặp lần thứ nãm của các quốc gia thành viên, tổ chức vào tháng 9/2003 tại Bãng-cốc. Việt Nam cũng ðã tham dự Hội thảo về Công nghệ và Hợp tác trong lĩnh vực rà phá bom mìn nhân đạo trong tháng 4/2003 tại Côn Minh, Trung Quốc.

Những diễn biến chính kể từ 1999: Một cuộc khảo sát cấp quốc gia về tác động của bom mìn đã ðược triển khai vào tháng 2/2004 sau hõn ba nãm ðàm phán. Các hoạt ðộng khảo sát, rà phá, giáo dục về nguy cõ và hỗ trợ nạn nhân bom mìn của các tổ chức phi chính phủ (PCP) đã ðược mở rộng trong thời gian này, bao gồm thêm hai ðịa phưõng nữa. Chính phủ đã tiến hành hoạt ðộng rà phá trên diện rộng, ðặc biệt là trong dự án xây dựng ðường Hồ Chí Minh mới. Việt Nam công bố rằng từ nãm 1975 ðến nãm 2002, quân ðội ðã rà phá 1.200 triệu m2 đất, phá hủy 4 triệu quả mìn và 8 triệu vật liệu chưa nổ (VLCN). Kể từ năm 1998, 7 tổ chức PCP đã phối hợp rà phá 12 triệu m2 ðất bị ảnh hưởng nặng nề bởi bom mìn. Chính phủ đã hỗ trợ mở rộng chưõng trình Phục hồi chức nãng dựa vào cộng ðồng từ 40 lên 46 trong số 61 tỉnh, thành phố tính ðến cuối nãm 2003. Năm 2001, Chính phủ đã thành lập Ban ðiều phối quốc gia về người tàn tật. Các nhà tài trợ ðã cung cấp ước tính khoảng 35 triệu ðô-la cho các hoạt ðộng phòng chống bom mìn ở Việt Nam. Việt Nam khẳng định vẫn tiếp tục sản xuất mìn sát thưõng. Các quan chức Chính phủ tuyên bố rằng Việt Nam hiện nay và sẽ không bao giờ xuất khẩu mìn. Trong khoảng từ nãm 1975 ðến nãm 2000, Việt Nam ghi nhận ðược 104.701 trường hợp thưõng vong do bom mìn (38.849 người chết và 65.852 người bị thưõng). Con số ước tính về tỷ lệ thưõng vong do bom mìn hiện nay ở vào khoảng 1.200 và 2.992 người bị chết và bị thưõng mỗi nãm.

Chính sách cấm mìn

Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa tham gia Hiệp ước Cấm Mìn. Bộ Quốc phòng vẫn giữ nguyên ư kiến cho rằng còn cần mìn cho các mục đích quốc phòng. Việt Nam lần nào cũng bỏ phiếu trắng cho nghị quyết ủng hộ việc cấm mìn của Ðại hội ðồng Liên hợp quốc kể từ nãm 1996, trong ðó có Nghị quyết 58/53 ra ngày 8/12/2003.

Việt Nam đã tham dự một số cuộc họp chuẩn bị cho Công ước Ốt-ta-oa với tư cách quan sát viên, song không tham gia ðàm phán. Việt Nam ðã cử đại diện đến tham dự Hội nghị kư kết hiệp ước tại Ốt-ta-oa, Ca-na-ða hồi tháng 12/1997. Ðại diện phía Việt Nam ðã tuyên bố như sau: “Việt Nam hoan nghênh nỗ lực của Chính phủ Ca-na-ða và chính phủ các nước, Liên ðoàn các hội Chữ thập ðỏ và Trãng lưỡi liềm ðỏ quốc tế, Phong trào Quốc tế về Cấm Mìn và các tổ chức PCP khác trong việc ðạt ðược một hiệp ước quốc tế toàn diện về cấm mìn sát thưõng. Việt Nam vẫn chưa tham gia Hiệp ước vì lư do bảo vệ lãnh thổ.... Là nạn nhân của chiến tranh, trong đó có bom mìn, Việt Nam tin tưởng rằng các nước khác sẽ hiểu và chia sẻ quan ðiểm của Việt Nam”.[1]

Tiếp sau đó, đã có dấu hiệu tan bãng trong chính sách và thái ðộ của Việt Nam ðối với vấn ðề bom mìn, đến mức một quan chức Chính phủ đã phát biểu tại một diễn ðàn quốc tế vào ðầu nãm rằng việc Việt Nam tham gia Hiệp ước chỉ “là vấn ðề thời gian, chứ không phải là vấn ðề mang tính nguyên tắc”.[2] Một tài liệu nội bộ số ra tháng 3/2000 của Bộ Ngoại giao ðược cung cấp cho Landmine Monitor có nêu rằng Việt Nam coi Hiệp ước Cấm Mìn là “một nỗ lực quan trọng nhằm ngăn chặn việc sử dụng mìn.... [Việt Nam] ủng hộ việc hạn chế sử dụng mìn sát thưõng và lên án việc sử dụng mìn bừa bãi ðể tàn sát dân thường.... [Tuy nhiên, Hiệp ước] chưa xem xét ðầy ðủ nhu cầu về an ninh và quốc phòng của các nước khác nhau.”[3] Tại một cuộc hội thảo cấp khu vực về bom mìn tổ chức vào tháng 5/2002, ðại diện Việt Nam tuyên bố: “Chúng tôi hiện ðang nghiêm túc xem xét Công ước Ốt-ta-oa.”[4] Việt Nam đã tham dự các cuộc họp liên kỳ ðầu tiên về Hiệp ước Cấm mìn vào tháng 9/1999, tuy nhiên từ ðó về sau không tham dự thêm cuộc họp nào. Việt Nam ðã dự Cuộc gặp lần thứ hai của các quốc gia thành viên tổ chức tháng 9/2000 với tư cách quan sát viên, tham gia hội thảo khu vực về tiêu huỷ mìn tàng trữ tổ chức tại Ma-lai-xia tháng 8/2001 và hội thảo khu vực về bom mìn do Thái Lan tổ chức từ 13–15/05/2002.

Việt Nam cũng đã tham dự Cuộc gặp lần thứ nãm của các quốc gia thành viên vào tháng 9/2003 tại Băng-cốc. Tại cuộc gặp, đại diện Việt Nam cho Landmine Monitor biết: “Việt Nam phản đối việc sử dụng mìn bừa bãi ðể ðối phó với thường dân vô tội. Chúng tôi chia sẻ những mối quan tâm mang tính nhân ðạo ðối với nạn nhân bom mìn, chúng tôi ủng hộ nỗ lực quốc tế nhằm hỗ trợ hoạt động phòng chống bom mìn, trợ giúp nạn nhân, và giúp các quốc gia khắc phục hậu quả để phát triển kinh tế-xã hội.”[5] Các quan chức Chính phủ Việt Nam đã tham dự Hội thảo về Công nghệ và Hợp tác trong lĩnh vực rà phá bom mìn nhân đạo tổ chức vào tháng 4/2004 tại Côn Minh, Trung Quốc. Ðại diện của Trung tâm Công nghệ xử lư bom mìn thuộc Bộ Quốc phòng (BOMICO) đã có bài trình bày về hoạt ðộng rà phá bom mìn, còn một quan chức của Bộ Ngoại giao thì phát biểu về kinh nghiệm của Việt Nam trong hợp tác quốc tế. Ðại diện Dự án RENEW Quảng Trị cũng có bài thuyết trình.[6]

Một quan chức Bộ Ngoại giao nhận xét rằng với việc quan hệ với Mỹ ðược cải thiện, mà cụ thể là việc triển khai cuộc Khảo sát về Tác ðộng của bom mìn do Bộ Ngoại giao Mỹ tài trợ, “cánh cửa nay đã rộng mở” cho sự hỗ trợ quốc tế trong mọi lĩnh vực của hoạt động phòng chống bom mìn.[7]

Việt Nam đã kư Công ước về Vũ khí thông thường nãm 1981, song vẫn chưa phê chuẩn hoặc tham gia bất kỳ cuộc họp mới ðây nào về Công ước này.

Sản xuất, Chuyển nhượng, Tàng trữ và Sử dụng

Năm 2000, một quan chức Bộ Quốc phòng đã cho Landmine Monitor hay rằng Việt nam vẫn tiếp tục sản xuất mìn sát thưõng.[8] Loại mìn duy nhất mà Việt Nam sản xuất trong những nãm ’90 là “mìn táo”, ðược tái chế từ loại bom bi BLU-24 do Mỹ thả trong thời gian chiến tranh.[9]

Trước ðây, Việt Nam có sản xuất các loại mìn nhái kiểu mìn của Mỹ, Trung Quốc và Liên Xô.[10] Tại triển lãm Expo 2000 ở Hà nội, Viện Công nghệ quân sự đã liệt kê một số loại mìn dễ cài đặt trong danh mục 10 dự án nghiên cứu hàng ðầu của Viện.[11]

Việt Nam hiện vẫn theo duy trì chính sách cấm xuất khẩu mìn sát thưõng. Tháng 12/1997, tại hội nghị kư kết Hiệp ước Cấm Mìn, một quan chức Việt Nam đã tuyên bố: “Việt Nam không xuất khẩu mìn sát thưõng.”[12] Năm 2001, trong công văn gửi Landmine Monitor, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã viết rằng “Việt Nam chưa từng và sẽ không bao giờ xuất khẩu mìn.”[13] Mặc dù phủ nhận việc xuất khẩu mìn trong quá khứ, song dường như Việt Nam ðã từng cung cấp mìn sát thưõng cho Cam-pu-chia cho đến tận đầu những năm ’90.[14] An-gô-la liệt kê loại mìn mảnh kư hiệu NOMZ-2B có nguồn gốc từ Việt Nam trong danh mục các loại mìn tìm thấy ở nước này ðính kèm theo báo cáo về các biện pháp minh bạch ðược ðệ trình trong năm 2004.[15] Số mìn này có lẽ đã ðược xuất khẩu trong thời kỳ nội chiến ở An-gô-la vào những nãm ’80 hoặc ðầu những nãm ’90. Có một số báo cáo về việc buôn lậu chất nổ còn lại từ thời chiến tranh, kể cả mìn.[16]

Một quan chức Bộ Quốc phòng khẳng ðịnh có việc tàng trữ mìn sát thưõng trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng 5/2003, song không cho biết chi tiết về quy mô hay thành phần ngoài việc tuyên bố “Việt Nam không cất giữ một lượng mìn lớn, song chúng tôi có ðủ ðể bảo vệ ðất nước chống ngoại xâm.”[17]

Năm 2000, một quan chức của BOMICO cho biết Bộ Quốc phòng ðang tiến hành tiêu huỷ “hàng nghìn” quả mìn không ðảm bảo an toàn còn lại từ trước nãm 1975.[18]

Không có báo cáo nào về việc sử dụng mìn sát thưõng trong thời gian gần ðây của các lực lượng vũ trang Việt Nam. Lần cuối cùng quân ðội cài ðặt một số lượng mìn ðáng kể là trong thời gian chiến tranh biên giới với Cam-pu-chia và Trung Quốc vào cuối những nãm ’70 và trong thời gian Việt Nam ðóng quân ở Cam-pu-chia từ nãm 1979 ðến 1990.

Có một số báo cáo về việc những người sãn bắt thú, ðánh cá, buôn lậu và buôn bán sắt thép phế liệu sử dụng các loại vật liệu nổ và mìn tự chế.[19]

Vấn đề Mìn và Vật liệu chưa nổ

Việt Nam hiện bị ảnh hưởng bởi một lượng VLCN lớn còn lại từ cuộc chiến diễn ra trong những nãm ’60 và ðầu những nãm ’70, và một lượng bom mìn nhỏ hõn do các cuọc xung ðột khác ðể lại. Các bãi mìn tồn tại từ thời chiến dịch Ðiện Biên Phủ chống thực dân Pháp nãm 1954, kéo dài cho ðến hết các cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc và Khmer Ðỏ trong những nãm ’70. BOMICO hiện cho rằng có tới 20% bề mặt của Việt Nam, tổng cộng 66.578 triệu m2, chịu ảnh hưởng của mìn và VLCN.[20] Con số này tãng lên nhiều so với con số 7-8% mà BOMICO ước tính trước ðó. Không có lư do nào ðược ðưa ra ðể giải thích cho sự thay ðổi ðó. Quỹ Cựu chiến binh Mỹ tại Việt nam (VVAF) đã trích dẫn nguồn tin của Bộ Quốc phòng nói rằng “3 triệu quả mìn vẫn còn nằm trong lòng ðất Việt Nam”, chưa kể VLCN.[21] Các nguồn tin chính thức trích dẫn con số dao động từ 350.000-800.000 tấn vật liệu nổ từ thời chiến tranh còn nằm trong lòng đất.[22] Toàn bộ 61 tỉnh, thành phố ðều bị ảnh hưởng, ðặc biệt là khu vực miền Trung và miền Nam, dù vậy, hiện chỉ có các chưõng trình phòng chống bom mìn lớn ðược thực hiện ở 3 tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Quảng Trị, Quảng Bình và Thừa Thiên-Huế.

Quy mô của vấn đề bom mìn không nghiêm trọng lắm vào cuối những nãm ’70 và ðầu những nãm ’80, ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Tuy nhiên, theo báo cáo các loại vật liệu nổ ðã ðược tìm thấy ở 41 trên tổng số 61 tỉnh, thành phố trong năm 2003.[23] Bộ Quốc phòng cho biết những phần bị ảnh hưởng nặng nhất của Việt Nam là các tỉnh miền Trung từ Khu Phi quân sự cũ trở xuống phía Nam, bao gồm Quảng Trị, Quảng Nam và Quảng Ngãi.[24] Hồ sõ lịch sử về các hoạt ðộng chiến tranh của Mỹ hiện ðược BOMICO lưu giữ, do Cõ quan Hợp tác an ninh quốc phòng Mỹ cung cấp, cho phép xếp thứ tự các ðịa phưõng theo tổng số vật liệu ðã ðược ném xuống, mà chủ yếu là các loại bom và bom bi. [25] Các loại VLCN thường gặp nhất là bom bi BLU-26/36 và lựu ðạn M79 40mm, hai loại vật liệu là thủ phạm gây ra 65% số thưõng vong kể từ 1975.[26] Ban Biên giới thuộc Bộ Ngoại giao khẳng ðịnh hồi tháng 5/2003 rằng mặc dù ðã rà phá khá nhiều trong những năm ’90, song mìn vẫn còn là vấn ðề nghiêm trọng trên các tuyến biên giới Việt-Trung và Việt Nam-Cam-pu-chia. Trên tuyến biên giới với Lào, mìn tuy ít song lại có khá nhiều VLCN.[27]

Số liệu ðiều tra cho thấy người dân hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế thường bắt gặp bom mìn nhất là khi ðang lấy củi, làm ðồng hoặc chãn gia súc gần nhà.[28] Có tới 35% diện tích ðất của tỉnh Quảng Trị không thể sử dụng ðể trồng trọt hay tái ðịnh cư.[29] Rất ít khu vực có bom mìn ðược ðánh dấu, dù chỉ bằng những vật liệu sẵn có tại ðịa phưõng như cành tre.[30] Kết quả khảo sát ở tỉnh Quảng Trị cho thấy chỉ có 33% ðịa phưõng dưới cấp huyện có các loại biển báo, và 92% số nạn nhân sống sót cho biết những khu vực mà họ bị tai nạn không có biển báo nguy hiểm.[31] Trong một số trường hợp, không có bản ðồ các bãi mìn, hoặc vị trí đã bị dịch chuyển do lũ lụt, lở đất hoặc xói mòn.[32]

Các công nhân làm ðường Hồ Chí Minh, ðoạn chạy qua các vùng bị ảnh hưởng gần ranh giới phân chia hai miền cũ, ðã tìm thấy hàng chục nghìn VLCN tính từ năm 2001.[33] Các ðoạn ðường mới mở ở các tỉnh miền Trung ðang thu hút dân di cư từ những vùng xuôi sống chủ yếu nhờ nghề làm ruộng nhỏ và buôn bán. Do dân di cư khai phá ðất ðai chưa từng ðược sử dụng trước ðây gần một số ðoạn của ðường mòn Hồ Chí Minh cũ nên họ sẽ gặp phải mìn và VLCN.

Các báo cáo từ khu vực miền Trung và miền Nam Việt Nam cho thấy sự gia tãng nhanh chóng của hoạt ðộng rà tìm bom và sắt thép phế liệu ở những vùng chưa ðược rà phá kể từ thời chiến tranh.[34] Phần lớn những người làm công việc này ðều không muốn, song phải làm do không có lựa chọn nào khác về sinh kế; chỉ rất ít người ðược dạy cách tháo gỡ vật liệu nổ.[35] Thu nhặt sắt thép phế liệu là một hoạt ðộng hợp pháp ở Việt Nam. Tuy vậy, sở hữu hoặc sử dụng chất nổ lại là bất hợp pháp. Các mức phạt tiền và phạt tù ðã ðược ban hành áp dụng ðối với những người buôn bán chất nổ và những ngư dân nào tàng trữ một khối lượng lớn VLCN, tuy nhiên, việc thi hành luật còn thiếu liên tục.[36] Kết quả tìm hiểu ở tỉnh Quảng Trị đã khẳng định tình trạng buôn bán nhộn nhịp sắt thép phế liệu xuyên biên giới sang Lào. Một khi không có chất nổ trong hoạt động buôn bán đó thì việc xuất nhập khẩu kim loại và thiết bị rà tìm kim loại là hợp pháp.

Khảo sát và Ðánh giá

Ngày 25/02/2004, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ðã phê duyệt kế hoạch Khảo sát cấp quốc gia về tác động của mìn và VLCN, kết thúc quá trình ðàm phán kéo dài từ tháng 12/2000.[37] Giai ðoạn I của cuộc khảo sát sẽ kéo dài một nãm, thực hiện tại 3 tỉnh miền Trung là Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng Trị, với kinh phí 1.158.000 ðô-la, trong ðó 993.000 ðô-la là do Bộ Ngoại giao Mỹ tài trợ và 165.000 ðô-la ðóng góp bằng hiện vật của Bộ Quốc phòng Việt Nam. Cõ quan thực hiện khảo sát này là Trung tâm công nghệ xử lư bom mìn. Tổ chức VVAF trợ giúp về kỹ thuật, ðào tạo và giám sát thực hiện. Mục tiêu của khảo sát, theo VVAF, là nhằm “cung cấp cho Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ những số liệu chính xác và ðạt tiêu chuẩn ... [ðể] xác ðịnh rõ hõn các vấn ðề do VLCN gây ra và giúp Chính phủ nâng cao nãng lực hoạch ðịnh và xác lập ưu tiên ðối với các nguồn lực cho hoạt ðộng phòng chống bom mìn.”[38]

Hoạt động thu thập số liệu với sự hỗ trợ của Viện Xã hội học sẽ diễn ra từ tháng 5-11/2004. Kết quả thu thập sẽ ðược nhập vào cõ sở dữ liệu của Hệ thống quản lư quốc tế cho hoạt động phòng chống bom mìn (IMSMA). Thêm vào ðó, một diện tích 4 triệu m2 sẽ ðược khảo sát chuẩn bị cho hoạt ðộng rà phá.[39]

Sau khi kết thúc giai ðoạn I, cuộc khảo sát sẽ ðược mở rộng ra các ðịa phưõng khác trên cả nước thêm hai nãm nữa. Khoản kinh phí 3 triệu ðô-la ðược phân bổ cho giai ðoạn II, với phần ðóng góp của Bộ Quốc phòng chưa ðược xác ðịnh.[40] Việc thực hiện cuộc khảo sát này có thể ðược xem như là một phần của xu thế ấm dần lên trong mối quan hệ về quân sự giữa hai kẻ thù cũ, bao gồm các chuyến thãm cấp cao, trao ðổi tàu chiến và hợp tác về quân y.[41]

Cõ quan Hợp tác an ninh quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ đã hoàn thành việc chuyển giao một cõ sở dữ liệu tưõng thích với kỹ thuật ðịa không gian về các hoạt ðộng quân sự của Mỹ ở Ðông Nam Á từ Cục Lưu trữ quốc gia Mỹ sang cho quân ðội Việt Nam. Một bản sao cũng ðược lưu tại vãn phòng VVAF ở Hà Nội. Cõ sở dữ liệu này bao gồm số liệu về các loại vật liệu ðã ðược bắn từ máy bay, trực thãng, tàu chiến, cùng với các số liệu quân sự khác có liên quan. Mìn sát thưõng và các loại vật liệu sử dụng trong các trận chiến mặt ðất không ðược ðưa vào cõ sở dữ liệu này.[42]

Tháng 11/2003, Dự án RENEW công bố hai báo cáo: một báo cáo về cuộc khảo sát tác động của bom mìn ở huyện Triệu Phong ðược thực hiện trong nãm 2002 và một báo cáo về kết quả khảo sát KAP (Hiểu biết-Nhận thức-Hành vi) do UNICEF tài trợ và hỗ trợ thực hiện ở tỉnh Quảng Trị.[43] Số liệu ðược lưu giữ trong hệ thống dữ liệu của tỉnh ðược xây dựng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.[44] Số liệu thu thập ðược qua các cuộc khảo sát dự kiến sẽ giúp Chính phủ và các nàh tài trợ xác lập ưu tiên và xác ðịnh các kế hoạch cho tưõng lai.[45]

Cũng trong năm 2003, tổ chức Viet Nam Assistance for the Handicapped (VNAH), một tổ chức PCP Mỹ, đã tiến hành các cuộc khảo sát về nạn nhân bom mìn ở hai huyện của tỉnh Quảng Bình.[46] Tổ chức Handicap International (HI) đã tiến hành ðánh giá nhu cầu liên quan ðến vấn ðề bom mìn ở tỉnh Tây Ninh, gần biên giới với Cam-pu-chia, theo yêu cầu của Hội Chữ thập đỏ tỉnh.[47] Các kế hoạch tiến hành khảo sát ở cấp huyện về tác ðộng của bom mìn ở các tỉnh Thừa Thiên-Huế và Quảng Nam của UNICEF trong chưõng trình giáo dục về nguy cõ bom mìn vẫn chưa có tiến triển gì, do có sự lo ngại về kinh phí và muốn tránh trùng lặp với cuộc khảo sát cấp quốc gia của BOMICO-VVAF.[48]

Tháng 1/2003, tổ chức Hatfield Consultants của Ca-na-đa đã công bố báo cáo cuối cùng về kết quả khảo sát tình trạng nhiễm bom mìn và tác ðộng ðối với sức khỏe con người và các hoạt ðộng phát triển kinh tế- xã hội ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế.[49] Cuộc khảo sát ðược bắt ðầu vào nãm 2001 và ðược thực hiện với sự cộng tác của Ủy ban 10-80. Tổ chức Australian Volunteers International đã tiến hành một cuộc khảo sát tưõng tự ở huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên-Huế và hoàn thành trong tháng 3/2003.

Các tổ chức tham gia hoạt ðộng rà phá bom mìn thường tiến hành các cuộc khảo sát trước và sau khi rà phá. Ví dụ, tổ chức Mines Advisory Group (MAG), thì nghiên cứu mức độ nhiễm, tình hình nạn nhân hiện tại, và khả nãng sử dụng ðất sau rà phá trước khi bắt ðầu một dự án mới, rồi sau ðó ðánh giá các vấn ðề kỹ thuật, loại ðất ðược rà phá, và các yếu tố tưõng tự.[50]

Hoạt ðộng ðiều phối và lập kế hoạch

Một kế hoạch cấp quốc gia về phòng chống bom mìn hiện vẫn chưa ðược xây dựng.[51] Hiện nay, Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm về khía cạnh an ninh quân sự và cùng chịu trách nhiệm với Bộ Ngoại giao về phát triển chính sách đối với vấn đề bom mìn. Bộ Lao ðộng, Thưõng binh và Xã hội (Bộ LÐTBXH) chịu trách nhiệm hỗ trợ và phục hồi chức nãng lâu dài cho các nạn nhân, cùng với sự phối hợp của Bộ Giáo dục-Ðào tạo (Bộ GD&ÐT) và Bộ Y tế. Sự phối hợp giữa các cõ quan này, cũng như giữa các tổ chức PCP với nhau gặp phải một trở ngại mà theo lời một chuyên gia quốc tế ðịnh nghĩa là “sự tắc nghẽn thông tin ngay cả giữa các ðối tác với nhau.”

Về phía các tổ chức PCP quốc tế và các nhà tài trợ, một Nhóm công tác về vấn đề bom mìn đóng vai trò điều phối không chính thức hoạt động phòng chống bom mìn. Nhóm công tác này, liên kết với Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Trung tâm dữ liệu PCP, nhóm họp hàng quư luân phiên giữa Hà Nội và các tỉnh miền Trung. UNICEF là ðầu mối của các cõ quan Liên hợp quốc (LHQ) trong hoạt ðộng giáo dục về nguy cõ bom mìn. Hoạt động phòng chống bom mìn không ðược ðề cập một cách rõ ràng trong Khung viện trợ phát triển của LHQ hay Chiến lược toàn diện về tãng trưởng và giảm nghèo của Chính phủ Việt Nam, tuy nhiên, một số ðiều ðáng lo ngại liên quan ðến bom mìn đã ðược ðề cập thông qua những vấn ðề ưu tiên nhằm phát triển các mạng lưới an sinh xã hội ðề ra trong hai tài liệu nói trên.[52]

Quá trình ra quyết ðịnh ở cấp tỉnh ngày càng ðược phân cấp đối với cả hoạt động phòng chống bom mìn lẫn các vấn ðề phát triển khác. Các ưu tiên do chính quyền tỉnh, cụ thể là Ủy ban nhân dân (UBND), xác lập. Sở Ngoại vụ tỉnh sau ðó sẽ truyền ðạt những ưu tiên này tới các tổ chức quốc tế hoạt ðộng trên ðịa bàn tỉnh. Tiếp theo, UBND huyện sẽ quyết ðịnh những ðịa phưõng nào do huyện quản lư hoặc các địa bàn khác sẽ là mục tiêu ưu tiên cãn cứ trên yêu cầu của ðịa phưõng, kế hoạch phát triển của huyện và các dữ liệu khác.[53]

Các tổ chức quốc tế còn kết hợp các nỗ lực của mình với Quân ðội Việt Nam. Ngay cả khi nhận ðược các yêu cần tháo gỡ từ phía cộng ðồng, mọi hành ðộng xử lư vật liệu nổ, dù là làm tại chỗ hay di chuyển, ðều phải ðược các ðõn vị quân ðội của tỉnh cho phép vì chỉ có quân ðội mới ðược phép tiếp cận vật liệu nổ.

Tại Quảng Trị, hiện chưa có tiến triển nào trong việc thành lập một trung tâm ðiều phối cấp tỉnh.[54] Năm 2003, dự án RENEW đã trình ðề án chính thức cho tỉnh, song vẫn chưa nhận ðược câu trả lời. Chi phí thành lập ban ðầu của trung tâm ðiều phối ước tính vào khoảng 400-500.000 ðô-la, cộng thêm 150.000 ðô-la chi phí hoạt ðộng hàng nãm.[55] Ở Thừa Thiên-Huế, một trung tâm dịch vụ của tỉnh chịu trách nhiệm sắp xếp về mặt hậu cần cho tất cả các tổ chức PCP (không chỉ trong lĩnh vực hoạt ðộng phòng chống bom mìn), và chính quyền tỉnh thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo cho các tổ chức quốc tế hoạt ðộng trên ðịa bàn tỉnh.[56]

Rà phá mìn và vật liệu chưa nổ

Hoạt ðộng rà phá của quân ðội

Quân ðội nhân dân Việt Nam là cõ quan chủ chốt trong hoạt ðộng rà phá bom mìn. Hiện chưa có số liệu về hoạt ðộng rà phá do quân ðội tiến hành. Từ nãm 1975 ðến 2002, BOMICO tuyên bố 1.200 triệu m2 ðất với 4 triệu quả mìn và 8 triệu VLCN đã ðược rà phá.[57] Việc rà phá bề mặt ðã ðược tiến hành ngay sau chiến tranh trên một diện tích rộng, song nông; nhiều khu vực nay cần rà phá lại.[58] Đầu năm 2004, BOMICO ðược biết ðang rà phá 2 triệu m2 ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế, tuy nhiên ðây chỉ là một phần nhỏ trong nỗ lực mang tầm quốc gia của họ.[59] Năm 2003, các ðõn vị công binh đã rà phá những ðoạn bị Mỹ ném bom trên tuyến ðường mòn Hồ Chí Minh ði qua tỉnh Nghệ An và các khu vực cảng dọc theo bờ biển Thừa Thiên-Huế và Quảng Trị.[60]

Dự án rà phá lớn nhất của quân ðội trong những nãm gần ðây là một phần của công trình xây dựng ðường Hồ Chí Minh vượt qua những dãy núi cao miền Trung. Các công ty rà phá bom mìn khác của quân ðội gồm công ty Lũng Lô, công ty Trường Sõn và một vài ðõn vị khác của Bộ Tư lệnh Công binh, ðã tham gia nỗ lực rà phá bom mìn. Tổng chi phí xây dựng con ðường này là 500 triệu ðô-la, trong ðó 10 triệu ðô-la hay 2% ðã ðược chi cho rà phá bom mìn, vượt quá ngân sách dự toán.[61]

Các ðõn vị quân ðội cấp tỉnh và quân khu cũng tham gia hoạt ðộng rà phá bom mìn. Trọng tâm hàng ðầu cho hoạt ðộng rà phá của quân ðội là các dự án xây dựng hạ tầng, chẳng hạn như các khu công nghiệp, ðường giao thông và các tuyến thông tin. Không có hoạt ðộng rà phá nào của quân ðội diễn ra tại các ðịa ðiểm xây dựng thông thường; ví dụ, tại tỉnh Quảng Bình, diện tích lớn nhất ðược rà phá trong những nãm gần ðây là 1 triệu m2. Phí phải trả cho các hợp ðồng rà phá quân sự tuy thấp so với chuẩn mực quốc tế, song lại quá cao ðối với chính quyền tỉnh, chưa nói ðến các cá nhân công dân, ðể có thể rà phá một diện tích lớn. Nãng lực rà phá cũng còn hạn chế do trang thiết bị và ðộ sâu nõi nhiều vật liệu nổ bị chôn vùi.[62]

Các ðõn vị công binh quân ðội và bộ ðội biên phòng đã tiến hành rà phá ở các vùng biên giới. Giai ðoạn rà phá bom mìn trên các tuyến biên giới ðầu tiên ðược hoàn thành vào những nãm ’90, tiếp sau ðó là giai ðoạn hai, chi tiết hõn.[63] Trong nãm 2003, hoạt ðộng rà phá bom mìn đã ðược tiến hành ở các khu vực thung lũng và các khu vực cắt ngang biên giới thuộc tỉnh Lai Châu và Lạng Sõn dọc theo biên giới Việt-Trung.[64]

Các tổ chức quốc tế

Các tổ chức quốc tế hoạt ðộng trong lĩnh vực rà phá bom mìn đã rà phá 2,77 triệu m2 ðất trong nãm 2003 tại 3 tỉnh miền Trung là Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Bốn tổ chức PCP hiện ðang tiến hành cả hai hình thức rà phá tại chỗ và dịch vụ Xử lư vật liệu nổ là Mines Advisory Group (MAG), Solidarity Service International (SODI), Potsdam Kommunikation (PK), và Australian Volunteers International (AVI). Hai nhóm khác là Peace Trees (Mỹ) và Dự án RENEW hiện đang phối hợp thực hiện một dự án về xử lư vật liệu nổ.[65] Tổ chức PCP Clear Path International của Mỹ (CPI) không tham gia hoạt ðộng rà phá bom mìn kể từ ãnm 2002 và hiện ðang tập trung hoàn toàn vào hoạt ðộng hỗ trợ nạn nhân. Kể từ nãm 1998, 7 tổ chức này ðã rà phá ðược 12 triệu m2 ðất bị nhiễm bom mìn nặng, chủ yếu là tại hoặc xung quanh các căn cứ quân sự cũ của Mỹ.

Tổ chức PCP Anh Mines Advisory Group vẫn là tổ chức lớn nhất trong số các tổ chức hoạt ðộng trong lĩnh vực rà phá bom mìn, với 194 nhân viên thực hiện rà phá tại chỗ và các dự án xử lư vật liệu nổ tại Quảng Trị và Quảng Bình, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và ðào tạo cho dự án của tổ chức AVI ở Thừa Thiên-Huế. Tại Quảng Bình, MAG hiện quản lư các ðội rà phá bom mìn tại chỗ ở những ðịa ðiểm có diện tích lớn hõn sẽ ðược xây dựng thành những xóm làng và vùng nông thôn mới, cũng như các ðội rà phá bom mìn lưu ðộng có nhiệm vụ tiêu hủy các vật liệu nổ tìm thấy tại các thôn làng và cộng đồng. Trong năm 2003, MAG đã rà phá tổng cộng 88,2 héc-ta, tiêu hủy 22 quả mìn và 12.092 VLCN khác ở Quảng Trị.[66] Tổ chức này còn rà phá 1.483 VLCN, trong đó có 1.055 quả bom bi tại Quảng Bình.[67] MAG đã hoàn thành việc rà phá bom mìn trên khu ðất rộng 230.000m2 ðể xây dựng một nhà máy chế biến sắn tại Quảng Trị, ðược xem là một phần trong kế hoạch mời gọi ðầu tư của tỉnh.[68] Từ tháng 1-6/2004, MAG đã rà phá 93 héc-ta ðất với 5.554 VLCN và 54 quả mìn.

MAG bắt ðầu hoạt ðộng rà phá bom mìn tại chỗ ở tỉnh Quảng Trị vào nãm 1999, sau ðó bổ sung thêm một ðội xử lư vật liêu nổ vào năm 2001. Năm 2002, dự án Quảng Bình ðược triển khai bằng việc rà phá bom mìn ở huyện Lệ Thủy và cung cấp dịch vụ xử lư vật liệu nổ ở thị xã Đồng Hới. Tổng cộng, từ năm 1999 đến tháng 8/2004, MAG đã rà phá 3.850.000 m2 ðất, tiêu hủy 39.458 VLCN và 2.303 quả mìn. Các ðội rà phá lưu động của MAG đã đến 61.921 hộ gia đình ở 384 thôn làng để xử lư 25.898 VLCN và 270 quả mìn.[69]

Các dự án rà phá bom mìn tại chỗ thường ðược lồng ghép với kế hoạch tái ðịnh cư cho các hộ gia ðình nghèo: 176 gia đình đã ðược ðịnh cư tại 3 ðịa ðiểm thuộc tỉnh Quảng Trị và 212 gia ðình sẽ ðược bổ sung khi dự án hoàn thành. Ðịa ðiểm rộng 800.000m2 thuộc tỉnh Quảng Bình sẽ là nõi cư ngụ của 453 gia ðình sau khi ðược rà phá xong.[70] Tổ chức PCP Anh Plan International hiện đang hợp tác với tổ chức MAG trong nỗ lực hỗ trợ tái ðịnh cư ở tỉnh Quảng Bình.[71] Nguồn kinh phí 2 triệu ðô-la hàng nãm của MAG phần lớn là do Bộ Ngoại giao Mỹ, tổ chức PCP Adopt-a-Minefield, và Quỹ Freeman Mỹ tài trợ.[72]

Tổ chức Solidarity Service International, tổ chức quốc tế ðầu tiên hoạt ðộng trong lĩnh vực rà phá bom mìn ở Việt Nam, đã rà phá ðược 5.004.036 m2 ở tỉnh Quảng Trị, phát hiện 24.829 quả mìn và VLCN, và xây dựng 158 ngôi nhà từ năm 1998 đến táng 4/2004.[73] Các ðội lưu ðộng của SODI, bắt đầu hoạt động từ giữa năm 2002, đã rà phá ðược 202.194m2 ðất, tháo gỡ 4.613 VLCN ở 16 ðịa phưõng thuộc huyện Cam Lộ và 4 ðịa bàn thuộc huyện Triệu Phong. Số lượng nhân viên của SODI hiện gồm có 52 người Việt và 3 chuyên gia xử lư vật liệu nổ Đức, với việc nâng cao năng lực cho nhân viên ðịa phưõng ðược xem là một ưu tiên.[74]

Nhằm mục ðích tái ðịnh cư cho những người dân ðã bị mất đất đai trong thời gian chiến tranh, tổ chức Potsdam Kommunikation (PK) đã rà phá 2.500.000m2 ðất với hõn 7.100 VLCN kể từ tháng 6/2000 ở 3 huyện của tỉnh Thừa Thiên-Huế, với một ðội ngũ nhân viên gồm 3 chuyên gia Ðức và 50 người Việt. Trong nửa ðầu nãm 2004, 360.000 m2 ðất và 1.500 VLCN ðã ðược rà phá. Một ðội rà phá bom mìn lưu ðộng 5 người ðã bắt ðầu hoạt ðộng trong tháng 7/2003 và kể từ ðó ðã rà phá hõn 87.000 m2 ðất với hõn 8.000 VLCN và mìn.[75] PK hiện ðang hợp tác với tổ chức World Vision và các tổ chức PCP quốc tế khác về việc xây dựng nhà ở trên diện tích ðất ðã rà phá. Nãm 2003, dự án rà phá bom mìn của PK ở Huế đã rà phá ðược 800.000m2 ðất ở 2 thôn, hiện là nõi ðịnh cư của 150 gia ðình trước ðây không có ðất ðai.[76]

Tính ðến cuối nãm 2004, SODI và PK dự kiến rà phá tổng cộng 1.500.000m2 ðất ở cả hai tỉnh. Diện tích ðất này sẽ ðược sử dụng ðể tái ðịnh cư cho 180 gia ðình ở 2 thôn Cẩm Thủy và Bình Ðiền, gần ðường Hồ Chí Minh mới. Các ðối tác Việt Nam sẽ ðóng góp 500.000 ðô-la thông qua việc cải thiện cõ sở hạ tầng. Các dự án này cũng sẽ bao gồm cả hoạt ðộng giáo dục về nguy cõ bom mìn, ðánh dấu các khu vực bị ảnh hưởng, và tập huấn cho công binh Việt Nam.[77] Cả SODI lẫn PK ðều nhận ðược kinh phí tài trợ cho các hoạt ðộng rà phá bom mìn từ Bộ Ngoại giao Ðức. Công ty Gerbera, một công ty thưõng mại hoạt ðộng trong lĩnh vực rà phá bom mìn, hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho cả hai tổ chức này.[78]

Tổ chức Australian Volunteers International (AVI), với lực lượng gồm 26 nhân viên quân sự biệt phái sang và sự hỗ trợ kỹ thuật của tổ chức MAG, ðang tiến hành dự án xử lư vật liệu nổ lưu ðộgn và rà phá bom mìn tại chỗ. Dự án này nhằm mục ðích tháo gỡ toàn bộ VLCN ở 5 ðịa phưõng ðược lựa chọn ưu tiên, trước hết là ở huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên-Huế, tiếp theo là các hoạt ðộng phát triển cộng ðồng như ðã thống nhất với người dân ðịa phưõng. Nãm 2003, dự án ðã rà phá 28.688 m2 ðất ðể xây dựng hạ tầng, và 7.338 m2 trong quư đầu của năm 2004. Các đội xử lư vật liệu nổ của quân đội đã đến với 6.249 hộ gia đình trong nãm 2003, và 2.217 hộ trong quư đầu năm 2004. Dự án được AusAID tài trợ cho giai ðoạn từ tháng 7/2002 ðến tháng 6/2005. Các kế hoạch tưõng lai bao gồm việc ðến từng nhà ðể tháo gỡ VLCN khi ðược báo tin và nâng cao nãng lực cho các ðội rà phá bom mìn của ðịa phưõng.[79]

Ðội rà phá bom mìn lưu ðộng của tổ chức Peace Trees ðóng tại thị xã Ðông Hà ðã tiến hành hoạt ðộng rà phá ở hai huyện miền núi Ðakrông và Hướng Hóa vào ðầu nãm 2004, với nguồn kinh phí do Oxfam Hong Kong tài trợ.[80] Tổ chức Peace Trees chi 65.000 ðô-la mỗi nãm cho hoạt ðộng rà phá và giáo dục về nguy cõ bom mìn.[81] Bắt đầu từ quư hai năm 2004, đội này sẽ do Dự án RENEW tài trợ và chuyển hoạt ðộng sang huyện Triệu Phong, nhờ khoản đóng góp 60.000 đô-la từ hai cá nhân.[82] Tháng 9/2002, PeaceTrees Vietnam đã khánh thành Làng hữu nghị do tổ chức này xây dựng tại thị xã Ðông Hà, Quảng Trị, trên nền khu cãn cứ hải quân cũ của Mỹ. Ðể thực hiện dự án này, Peace Trees đã hợp ðồng với công ty rà phá bom mìn thưõng mại UXB ðể rà phá 400.000m2 ðất.

Giáo dục phòng tránh bom mìn

Cùng với các ðối tác Việt Nam ở cấp quốc gia, tỉnh và ðịa phưõng, 9 tổ chức quốc tế ðã tiến hành các hoạt động giáo dục phòng tránh bom mìn (GDPTBM) trong nãm 2003. Trên 22.900 người ðã tham gia các ðợt hoạt ðộng GDPTBM trong nãm qua. Hầu hết các nỗ lực về GDPTBM ðều tiếp tục chú trọng tới 3 tỉnh miền Trung là Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Các cuộc khảo sát và ðánh giá ðược thực hiện xong trong nãm 2003 và ðầu nãm 2004 cho thấy rằng các chưõng trình đều đã thành công nhờ ðến ðược với nhiều người, làm thay ðổi thái ðộ và hành vi trong một số trường hợp. Tuy vậy, số liệu về thưõng vong và thống kê trên báo chí cho thấy rằng còn rất cần nhiều hoạt ðộng GDPTBM ở những ðịa phưõng khác trên cả nước, ðặc biệt là vùng duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên.

Ngay cả ở những vùng ðã phổ biến các thông ðiệp về GDPTBM, tỷ lệ người ðược tiếp cận cũng không ðều. Chỉ có 7% số người bị thưõng do bom mìn ở Quảng Trị trong 5 năm qua cho biết đã nghe qua các thông điệp về phòng tránh bom mìn trước khi bị thưõng, so với 80% số người trên toàn tỉnh. Việc tiếp cận các thông ðiệp hiện có giảm dần theo thu nhập. Số dân sống ở các huyện miền núi giáp biên giới Lào bị ảnh hưởng bom mìn nặng ðược tiếp cận các thông tin giáo dục phòng tránh bom mìn chỉ bằng non nửa so với người dân sống ở những nõi khác. Truyền hình có ðộ bao phủ rộng nhất trong số các biện pháp giáo dục ðối với mọi nhóm thu nhập, dân tộc và vùng lãnh thổ, song khả nãng tiếp cận của nó cũng giảm ði ở những khu vực nghèo khó, xa xôi và vùng các dân tộc ít người sinh sống. Ðài truyền thanh là biện pháp hiệu quả hõn ðể ðến ðược với những người dân này.[83]

Ở Quảng Bình, hiện chưa có các chưõng trình GDPTBM trong trường học; hoạt ðộng GDPTBM chỉ có ở những nõi ðang diễn ra các nỗ lực rà phá bom mìn. Các quan chức chính quyền bàu tỏ sự mong muốn có thêm các chưõng trình truyền hình dành cho ðối tượng là trẻ em và những người làm nông nghiệp, cũng như các nỗ lực nhằm chặn đứng tình trạng “săn bom” của cá nhân.[84]

Các nỗ lực ở cấp quốc gia nhằm lồng ghép các thông điệp về phòng tránh bom mìn vào chưõng trình quốc gia về phòng tránh tai nạn đã bị chậm lại trong năm 2003. Ủy ban quốc gia về Phòng tránh tai nạn và thưõng tật ðã ðề ra một kế hoạch hành ðộng sau khi họp hội nghị lần thứ nhất nãm 2002, song chưa có hành ðộng nào ðược tiến hành ðể thực hiện chưõng trình này. UNICEF, cõ quan hỗ trợ chính cho chưõng trình này, vẫn tiếp tục một chiến dịch phòng tránh thưõng tật tại 15 tỉnh, thành phố trên toàn quốc thông qua Bộ Giáo dục và Ðào tạo, Ủy ban Dân số, Gia ðình và Trẻ em, trong ðó có hoạt ðộng GDPTBM. Các hiến lược thực hiện bao gồm việc sử dụng phưõng tiện thông tin ðại chúng (truyền hình, ðài phát thanh, báo chí và áp phích) và biên soạn một cuốn sổ tay về an toàn và phòng tránh thưõng tật cho trẻ em ở nhà, giữa cộng ðồng và ở trường.[85]

Cụ thể về các thông ðiệp liên quan ðến bom mìn, UNICEF hiện đang hỗ trợ nhiều hoạt động ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế trong nãm 2004 như: các chưõng trình phát thanh và truyền hình, bảng tin, GDPTBM cho cộng ðồng dọc theo tuyến ðường Hồ Chí Minh, tập huấn cho giáo viên và nhiều hoạt ðộng khác. Tổng kinh phí là 160.000 ðô-la.[86] Tại Quảng Bình và Thừa Thiên-Huế, báo chí ðịa phưõng ðã tổ chức các cuộc thi cuối tuần về phòng tránh bom mìn với những giải thưởng nhỏ do UNICEF trao. Ðoàn thanh niên tổ chức các buổi biểu diễn vãn nghệ tại các cung vãn hóa thanh niên, song do kinh phí thấp nên những hoạt ðộng này chỉ thu hút ðược một lượng khán giả nhỏ.[87]

Nãm 2003, Dự án RENEW phối hợp với Ðài truyền hình và Ðoàn thanh niên ðịa phưõng hoàn thành một dự án phòng chống bom mìn thí ðiểm kéo dài 18 tháng, trong ðó có các hoạt ðộng GDPTBM tại tất cả 19 xã của huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Dự án bắt ðầu vào tháng 7/2001. Trong giai ðoạn II sẽ chuyển giao dự án cho các ðối tác ðịa phưõng và mở rộng hoạt ðộng sang một huyện mới là huyện Hải Lãng. Kết quả ðánh giá cho thấy cần có sự phối hợp tốt hõn nữa giữa các hợp phần của dự án, ðặc biệt là sự liên kết chặt chẽ hõn nữa với hoạt ðộng rà phá bom mìn lưu ðộng.[88] RENEW hiện ðang hợp tác với UNICEF trong hoạt ðộng GDPTBM cho trẻ em và chuẩn bị làm một cuốn sách ðể phát cho trẻ em Quảng Trị.[89] Kể từ tháng 7/2001, dự án RENEW đã tổ chức “các cuộc diễu hành phòng tránh bom mìn”, các cuộc hội thảo về phòng tránh bom mìn cho người dân cùng tham gia, và sản xuất các ðoạn quảng cáo ngắn và phim tài liệu về GDPTBM.[90]

Tổ chức Catholic Relief Services (CRS) bắt đầu triển khai một khoá học về GDPTBM cho giáo viên ở huyện Triệu Phong vào tháng 11/2001. Nãm 2002, CRS ðã giới thiệu một chưõng trình dạy và học về phòng tránh bom mìn trong trường tiểu học, với 200 giáo viên và 4.050 học sinh ðược hưởng lợi từ chưõng trình. Năm 2003, dự án GDPTBM đã ðến ðược với 7 trường tiểu học ở 5 xã. Hõn 4.000 trẻ em và 200 giáo viên ðã sử dụng chưõng trình dạy và học về phòng tránh bom mìn, và hiện chưõng trình này ðang ðược chỉnh lư lần thứ ba. Các cuộc họp giữa nhà trường và cộng ðồng ðã thu hút ðược 3.500 cha mẹ học sinh tham gia. tại một “trại sáng tác” mùa hè nãm 2003, 31 học sinh và giáo viên Việt Nam và Lào ðã cùng soạn một cuốn sách song ngữ gồm những câu chuyện và hình ảnh về phòng tránh bom mìn. Dự án của CRS dự kiến ðược hoàn thành vào tháng 9/2004; Hiện tổ chức này ðang xem xét việc mở rộng dự án sang các huyện khác.[91]

Tổ chức PCP Peace Trees Vietnam đã thành lập Trung tâm GDPTBM mang tên Danaan Parry vào tháng 9/1998 nhằm mục ðích GDPTBM và phục hồi chức nãng cho các nạn nhân bom mìn. Năm 2002, tổ chức này ðã cùng với Hội Phụ nữ tiến hành tập huấn cho giáo viên về GDPTBM và tập huấn tại các thư viện của Quảng Trị cho hõn 2.000 người.[92] Nãm 2003, Peace Trees Vietnam tổ chức một trại GDPTBM và cuộc thi vẽ tranh tại thị xã Ðông Hà, Quảng Trị với gần 800 em thiếu nhi tham gia.[93] Tính đến đầu năm 2004, Peace Trees đã cung cấp tài liệu về GDPTBM cho các thư viện mà tổ chức này xây dựng tại 5 xã. Peace Trees Viet Nam đã tài trợ 12.600 ðô-la trong số tổng kinh phí dự án là 33.700 ðô-la, phần còn lại do Hội Phụ nữ tỉnh, Chính phủ Úc và sứ quán Hà Lan tài trợ.[94]

Các tổ chức SODI, PK và AVI ðều có hợp phần về GDPTBM trong các dự án rà phá bom mìn của mình. SODI kết hợp các hoạt động phòng tránh bom mìn với hoạt động của các đội xử lư vật liệu nổ ở hai huyện Cam Lộ và Triệu Phong, và ðã ðến ðược với 4.231 học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh trong nãm 2003.[95] PK bắt ðầu một chưõng trình phòng tránh bom mìn cho cộng ðồng trên phạm vi toàn tỉnh vào nãm 2002, với trọng tâm là việc ðến thãm các trường học tại huyện Hưõng Thủy, nõi ðang diễn ra hoạt ðộng rà phá bom mìn. Ðồng thời với việc rà phá bom mìn lưu ðộng, nhóm này còn tiến hành các hoạt ðộng GDPTBM với sự phối hợp của Hội Phụ nữ và Ðoàn thanh niên tỉnh. Ðến hết tháng 6/2004, có 7.000 học sinh phổ thông và 270 giáo viên ðã tham gia.[96] Tại huyện Phong Ðiền, Thừa Thiên-Huế, 64 người ðã tham gia các cuộc họp của nhóm trọng tâm do AVI tài trợ trong nãm 2003. Các hoạt ðộng này ðưa ðến việc nhận ðược 6 yêu cầu rà phá, 3 trong số ðó ðã ðược giải quyết. AVI đã phân phát tờ rõi về GDPTBM khi các ðội công tác của AVI ðến các gia ðình để xử lư vật liệu nổ và tổ chức các lớp tập huấn về nông nghiệp.[97]

Tổ chức VNAH bắt ðầu các dự án GDPTBM ở Thanh Hóa và Quảng Bình trong tháng 4/2002. Tại Quảng Bình, dự án đã tập huấn cho 90 giáo viên trung học ở huyện Bố Trạch, sử dụng một số tài liệu của CRS và Dự án RENEW ở Quảng Trị. Năm 2003, 3.400 học sinh đã tham gia các hoạt ðộng GDPTBM ở 6 trường tiểu học và trung học cõ sở.[98] VNAH hy vọng sẽ mở rộng dự án thí điểm này thành dự án PTBM tổng hợp trong nãm 2004. Tuy nhiên, hoạt ðộng GDPTBM ở Thanh Hóa ðã phải ngừng lại do ðối tác của VNAH là Sở LÐTBXH yêu cầu chuyển sang các hoạt ðộng khác.[99]

Tổ chức Handicap International đã mở văn phòng tại Hà Nội vào cuối năm 2003. Ðại diện của tổ chức này hiện vẫn ðang xem xét các dự án GDPTBM và hỗ trợ nạn nhân ðể bắt ðầu triển khai vào cuối nãm 2004.[100]

Kinh phí cho hoạt động phòng chống bom mìn

Việt Nam không công khai ngân sách dành cho hoạt ðộng phòng chống bom mìn, song các nguồn tin chính thức tuyên bố rằng Chính phủ ðầu tư “hàng trãm tỷ ðồng (tưõng ðưõng hàng chục triệu ðô-la) cho việc rà phá bom mìn” mỗi năm.[101] Bộ Quốc phòng ước tính ðể hoàn thành việc rà phá trong vòng 10 năm tới sẽ phải tốn 4 tỷ đô-la, đồng thời cộng thêm 1 tỷ ðô-la cho nhu cầu hỗ trợ nạn nhân.[102]

Nãm 2003, ba nhà tài trợ thông báo ðã cung cấp tổng cộng 4,3 triệu đô-la cho hoạt động phòng chống bom mìn ở Việt Nam, cụ thể là: Mỹ - 2.427.000 ðô-la; Ðức – 966.538 Euro (1.093.637 ðô-la);và Úc – 1.200.000 ðô-la Úc (782.400 đô-la Mỹ). Landmine Monitor xác định 17,7 triệu đô-la đã ðược chi cho hoạt ðộng phòng chống bom mìn ở Việt Nam trong nãm 2002 và 5,7 triệu ðô-la trong nãm 2001.

Theo báo cáo từ các nhà tài trợ, hõn 35 triệu ðô-la ðã ðược tài trợ hoặc cam kết tài trợ cho hoạt ðộng phòng chống bom mìn ở Việt Nam trong những nãm gần ðây. Con số này bao gồm cả khoản tiền 12 triệu ðô-la do Chính phủ Nhật bản tài trợ cho Bộ Quốc phòng trong nãm 2002 ðể mua sắm thiết bị rà phá bom mìn sử dụng trong các dự án phát triển hạ tầng, chẳng hạn như ðường Hồ Chí Minh. Các nhà tài trợ khác gồm chính phủ các nước Ðan Mạch, Ai-len và Na-uy với khoản tiền tài trợ 350.000 NOK (49.435 ðô-la) cho tổ chức Landmine Survivors Network (LSN) trong nãm 2003 ðể phát triển mạng lưới hỗ trợ nạn nhân bom mìn ở Việt Nam – cũng như Quỹ Freeman, SODI, PK, Liên hợp quốc, và các quỹ và tổ chức cứu trợ khác.

Nhà tài trợ song phưõng lớn nhất cho hoạt ðộng phòng chống bom mìn ở Việt Nam là Mỹ. Tổng số tiền tài trợ nãm 2003 là 2,427 triệu ðô-la bao gômg kinh phí cho dự án Khảo sát cấp quốc gia về tác động của bom mìn, hoạt ðộng rà phá bom mìn do tổ chức MAG tiến hành, và trang thiết bị cho Bộ Tư lệnh công binh.[103] Từ năm 1999 đến 2003, Mỹ đã tài trợ 13,6 triệu đô-la cho hoạt động phòng chống bom mìn. Nguồn kinh phí hỗ trợ khác của Mỹ cho hoạt ðộng trợ giúp nạn nhân là từ Quỹ Hỗ trợ nạn nhân chiến tranh mang tên Leahy, hiện ðang hỗ trợ tổ chức Health Volunteers Overseas (HVO), VNAH, VVAF, Prosthetics Outreach Foundation, và World Vision. Từ nãm 1999, Quỹ này ðã tài trợ tổng cộng 7,85 triệu ðô-la cho lĩnh vực người tàn tật nói chung, bao gồm cả nạn nhân bom mìn chứ không tách riêng.[104] Tổ chức LSN nhận ðược sự tài trợ từ Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Mỹ, với ngân sách hàng nãm cho Việt Nam ở vào 160.000 đô-la.[105]

Bộ Ngoại giao Ðức hiện ðang tài trợ cho các dự án rà phá bom mìn và tái ðịnh cư của SODI và

PK ở các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Tổng số tiền tài trợ nãm 2003 là 966.538 Euro (1,09 triệu ðô-la), trong ðó 501.281 Euro cho SODI và 465.257 Euro cho PK. Số tiền tài trợ này khá ổn ðịnh trong 5 nãm qua. Chính phủ Ðức còn hỗ trợ chưõng trình ðào tạo kỹ thuật viên làm chân tay giả VIETCOT ở Hà Nội, với khoản kinh phí 8,18 triệu Euro (9,2 triệu ðô-la) tài trợ thông qua tổ chức GTZ kể từ nãm 1994.[106]

Cõ quan Phát triển quốc tế Úc (AusAID) hỗ trợ 1,2 triệu ðô-la Úc (782.400 ðô-la)[107] cho dự án của tổ chức AVI ở Thừa Thiên-Huế trong nãm 2003.[108] Phí Úc cho biết đã tài trợ 650.000 ðô-la Mỹ trong nãm 2002 và 1,9 triệu ðô-la Mỹ nãm 2001.

Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện xong khoản tài trợ 12 triệu ðô-la bằng trang thiết bị rà phá bom mìn ðể rà phá cho cong trình xây dựng ðường Hồ Chí Minh trong nãm 2002. Một quan chức Sứ quán Nhật Bản cho Landmine Monitor biết rằng số trang thiết bị ðó còn ðược sử dụng ðến khi hoàn thành việc xây dựng ðường, và vào thời ðiểm này Chính phủ Nhật Bản chưa có kế hoạch tiếp tục hỗ trợ.[109]

Ai-len cho biết đã tài trợ 195.000 Bảng Ai-len trong năm 2001, còn Ðan Mạch tài trợ 1 triệu ðô-la trng nãm 2000 và 1 triệu ðô-la nãm 1999.

Các tổ chức PCP quốc tế hoạt động trong lĩnh vực phòng chống bom mìn và hỗ trợ nạn nhân đã nhận ðược kinh phí tài trợ từ các nguồn song phưõng, ða phưõng và tư nhân trong nãm 2003. Chính phủ Bỉ ðóng góp cho chưõng trình của HI ở miền Nam Việt Nam, còn Sứ quán Hà Lan thì hỗ trợ hoạt ðộng GDPTBM thông qua tổ chức Peace Trees ở tỉnh Quảng Trị. Các nhà tài trợ tư nhân có những ðóng góp ðáng kể cho một số dự án bao gồm Quỹ Freeman và và chưõng trình Adopt-A-Minefield của Anh. Các nhà tài trợ khác bao gồm tổ chức Atlantic Philanthropies, Cordaid (Hà Lan), Quỹ Nippon và tổ chức Oxfam Hong Kong. Liên minh vì sự an toàn của trẻ em do cựu đại sứ Mỹ tại Việt Nam Pete Peterson sáng lập đã tài trợ 100.000 ðô-la cho VVMF ðể thực hiện các dự án GDPTBM và hỗ trợ nạn nhân thuộc Dự án RENEW trong nãm 2004; 75.000 ðô-la trong số này là khoản ðóng góp của Công ty Bảo hiểm ACE (Mỹ).[110]

Tại cuộc thi “Ngày sáng tạo” do Ngân hàng Thế giới tổ chức hồi tháng 5/2003, Ngân hàng Thế giới ðã trao một số khoản tài trợ nhỏ khoảng 10.000 ðô-la mỗi khoản cho vài chục tổ chức quốc tế và trong nước, trong ðó có mạng lưới của người tàn tật. Dự án “Trẻ em giúp nâng cao nhận thức về sự an toàn liên quan ðến bom mìn trong cộng ðồng” của tổ chức CRS là một trong những dự án giành ðược tài trợ.

Một số nhà hoạt ðộng phòng chống bom mìn nhận xét rằng các nhà tài trợ quốc tế và các ðối tác về phía Chính phủ Việt Nam có thể tiến một bước quan trọng ðể có ðược sự ðiều phối tốt hõn nữa bằng cách ðưa kinh phí cho hoạt ðộng phòng chống bom mìn vào các dự án phát triển và xây dựng hạ tầng trên toàn quốc. Ví dụ, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vẫn chưa có những kế hoạch cụ thể nhằm giải quyết nhu cầu này, ngay cả khi các ðội xây dựng trong các dự án ðường giao thông của họ thường xuyên gọi ðiện yêu cầu công binh ðến tháo gỡ bom mìn.[111]

Thưõng vong do bom mìn

Hiện chưa có một cõ chế quốc gia toàn diện ðể thu thập và lưu giữ số liệu về thưõng vong do mìn và VLCN gây ra ở Việt Nam. Ðiều tra riêng của Landmine Monitor qua báo chí trong và ngoài nước cùng với thông tin do tổ chức CPI cho thấy ðã có ít nhất 220 trường hợp thưõng vong mới do bom mìn trong nãm 2003, trong ðó 81 người chết và 139 người bị thưõng.[112] Những con số này chắc chắn là còn thiếu nhiều. BOMICO ước tính “trung bình” mỗi nãm có 1.110 người chết và 1.882 người bị thưõng.[113] Các nguồn tin của Chính phủ cũng cho hay “số vụ tai nạn do bom mìn gây ra không ngừng tãng thêm ở mức 2.000 nạn nhân một nãm...”[114] Các nguồn khác tính toán rằng hàng nãm mìn và VLCN làm chết và làm bị thưõng tới 1.200 người Việt Nam.[115]

Tình hình báo cáo con số thưõng vong ðang dần dần ðược làm tốt hõn, ðặc biệt là ở những vùng có các chưõng trình hỗ trợ nạn nhân ðang hoạt ðộng tích cực. Nãm 2002, báo chí ðưa tin có ít nhất 166 trường hợp thưõng vong do bom mìn mới xảy ra (66 người chết và 100 người bị thưõng) and 237 (97 người chết và 140 người bị thưõng) trong nãm 2001.[116] Tổ chức CPI ước tính rằng trong số này có gần 100% trường hợp thưõng vong mới ở Quảng Trị, 85% ở Quảng Bình, tuy nhiên lại ít hõn nhiều ở những ðịa phưõng khác.[117]

Các trường hợp thưõng vong tiếp tục ðược báo cáo trong nãm 2004. Trong 4 tháng ðầu nãm, ít nhất 114 người ðã chết hoặc bị thưõng trong các vụ tai nạn bom mìn.[118] Tỷ lệ thưõng vong do bom mìn ðược báo cáo cao gấp hai lần so với cùng kỳ nãm 2003. Một số yếu tố có thể góp phần gây ra sự gia tãng này bao gồm việc khai phá những vùng ðất mới dọc theo ðường Hồ Chí Minh, công tác thu thập số liệu ðược làm tốt hõn, và giá bán sắt thép phế liệu cao hõn.[119]

Số liệu về thưõng vong do bom mìn thu thập ðược qua các cuộc khảo sát tại ðịa phưõng trong nãm 2002-2003 cho thấy rõ ràng có sự sụt giảm về số vụ tai nạn bom mìn theo thời gian. Tại tỉnh Quảng Trị, tỷ lệ sụt giảm lên tới 45-50% kể từ giữa những năm ’90.[120] Thu nhặt phế liệu, “săn bom,” và giẫm phải vật liệu nổ là những nguyên nhân hàng ðầu gây ra nhiều vụ tai nạn gần ðây, chiếm từ 25 ðến 50% số trường hợp thưõng vong trong 5 nãm qua. Các nguyên nhân khác gây tai nạn gần ðây bao gồm làm ruộng, chãn gia súc, lấy củi hoặc lấy nước.[121]

Phần lớn số thưõng vong trên toàn quốc là do bom bi và các loại VLCN khác gây ra chứ không phải do mìn sát thưõng; do ðó, các nạn nhân bom mìn ở Việt Nam thường phải chịu những thưõng tổn nửa thân mình trên, cụt chi trên và mù nhiều hõn là bị cụt chi dưới.[122]

Kể từ năm 1999, có ít nhất 5 chiến sĩ công binh đã chết và 2 người bị thưõng trong các hoạt ðộng rà phá bom mìn: 1 người bị chết nãm 2003;[123] 2 người bị thưõng nãm 2002;[124] 2 người bị chết nãm 2001;[125] ít nhất 2 hoặc 3 người bị chết trong nãm 1999.[126] Trong các năm 1991-1998, 37 chiến sĩ công binh đã tử vong trong các hoạt ðộng rà phá bom mìn dọc biên giới phía bắc của Việt Nam.[127]

Tháng 11/2003, Dự án RENEW đã tiến hành một cuộc khảo sát về tình hình thưõng vong do bom mìn ở tỉnh Quảng Trị. Khảo sát đã phát hiện ðược rằng có 2.540 người chết và 4.243 người bị thưõng trong các vụ tai nạn bom mìn từ nãm 1975 ðến 2002; 50% số vụ tai nạn xảy ra trong khoảng thời gian 1975-1980. Tỷ lệ thưõng vong giảm khoảng 200 trường hợp /nãm trong những nãm ’80, 150 trường hợp vào ðầu những nãm ‘90, và 50 trường hợp/nãm kể từ nãm 1998. Phần lớn nạn nhân bom mìn là nam giới (chiếm 83% ở Quảng Trị). Trong 5 nãm qua, 32% số thưõng vong do bom mìn ở Quảng Trị là trẻ em từ 18 tuổi trở xuống.[128] Một cuộc khảo sát tại huyện A Luoi, Thừa Thiên-Huế ðã phát hiện ra rằng trẻ em rất dễ tử vong do các vết thưõng: 62% số nạn nhân trẻ em bị chết so với 25% nạn nhân người lớn.[129] Tại Quảng Bình, một cuộc khảo sát do VNAH và Sở Lao động phối hợp thực hiện đã cho thấy có 276 người chết và 118 người bị thưõng ở huyện Bố Trạch kể từ nãm 1975.[130]

Số liệu thống kê trên toàn quốc mới nhất vào ngày 31/12/2000 do Bộ LÐTBXH cung cấp cho biết có 38.849 người chết và 65.852 người bị thưõng do bom mìn kể từ năm 1975.[131] Một cuộc khảo sát khác của Bộ LÐTBXH và UNICEF ðề xuất Chính phủ nên tiến hành một cuộc ðiều tra cấp quốc gia về người tàn tật (trong ðó có nạn nhân bom mìn).[132]

Hỗ trợ nạn nhân

Ở Việt Nam, dịch vụ y tế và chãm sóc sức khỏe do Bộ Y tế chịu trách nhiệm cung cấp ở các cấp tỉnh, huyện và xã, còn dịch vụ phục hồi chức nãng (PHCN) lại do Bộ Y tế và Bộ LÐTBXH cung cấp. Không có sự phân biệt trong khám chữa bệnh và cung cấp dịch vụ PHCN cho các nạn nhân bom mìn. Trên thực tế, ða số các tổ chức PCP quốc tế làm việc trong lĩnh vực người tàn tật cũng không phân biệt nạn nhân bom mìn với những người tàn tật khác.[133]

Các nạn nhân bom mìn dường như sống dưới mức chuẩn nghèo quốc gia. Gần 1/3 số gia ðình nạn nhân bom mìn sống với 5.000 ðồng/ngày (0,30 ðô-la Mỹ) hoặc ít hõn, và 90% sống trong các ngôi nhà lụp xụp. Ða số cho biết họ không nhận ðược sự hỗ trợ nào từ bên ngoài.[134] Các cuộc ðiều tra gần ðây phát hiện ra rằng ưu tiên hàng ðầu ðối với hõn 75% số nạn nhân bom mìn là ðược trợ giúp ðể tái hòa nhập về kinh tế và xã hội, trong đó có việc tiếp cận các nguồn tài trợ hoặc vốn vay, và hỗ trợ giáo dục.[135] Sự hỗ trợ hiện nay là chưa ðủ ðể ðáp ứng các nhu cầu của cộng ðồng và ðược ðiều phối kém với các mặt khác của hoạt ðộng phòng chống bom mìn.[136]

Việt Nam hiện có các dịch vụ y tế và PHCN thích hợp cho các nạn nhân bom mìn. Tuy nhiên, họ lại vấp phải những trở ngại về ðịa ðiểm và chi phí ðể tiếp cận các dịch vụ này. Phần lớn các tai nạn bom mìn xảy ra ở những nõi cách xa các tỉnh lỵ, nõi tập trung các cõ sở y tế. Cụ thể là khu vực miền Trung hiện không ðược cung cấp ðầy ðủ dịch vụ. Chưõng trình bảo hiểm y tế cho người tàn tật chỉ ðến ðược với 1% tổng số người tàn tật theo ước tính.[137]

Tổ chức CPI đã hỗ trợ về cấp cứu y tế kể từ năm 2001 cho các nạn nhân bom mìn ở 10 tỉnh miền Trung và Nam Trung bộ, bắt đầu từ Nghệ An vào phía Nam ðến Gia Lai và Ðak Lak ở Tây Nguyên. Chưõng trình cấp cứu ngoại tuyến giải quyết 3 ưu tiên rõ rệt, ðó là: hỗ trợ tài chính cho các nhu cầu cấp cứu y tế của nạn nhân tuỳ từng trường hợp, kể cả trả tiền cho một số thủ tục y tế ðặc biệt; cung cấp phưõng tiện vận chuyển nếu cần cho các bệnh viện khu vực ðể phục vụ cho cấc chưõng trình PHCN ðặc biệt; và, hỗ trợ tài chính cho các gia ðình nạn nhân, với mục tiêu ngăn ngừa sự suy sụp về kinh tế trong giai đoạn khó khăn sau khi xảy ra tai nạn. CPI còn hỗ trợ học bổng cho các em bị thưõng tật do bom mìn hoặc cho các em có bố mẹ bị thưõng tật ðể các em có thể tiếp tục ði học. Nãm 2003, CPI ðã hỗ trợ cấp cứu cho 53 vụ tai nạn; mỗi gia đình nhận ðược một khoản trợ cấp ðể ổn ðịnh cuộc sống, chi phí y tế tuỳ theo nhu cầu, cộng thêm một khoản phụ phí nhỏ cho nạn nhân và người chãm sóc trong thời gian ðiều trị. Thêm vào ðó, CPI còn hỗ trợ chãm sóc dựa vào cộng ðồng cho các gia ðình nạn nhân ở huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị và huyện Lệ Thủy, Quảng Bình; 60 gia đình đã ðược trợ giúp trong nãm 2003 trên tổng số 500 gia ðình ðược xác ðịnh là cần ðược trợ giúp. Nãm 2001 và 2002, CPI ðã hỗ trợ hõn 290 nạn nhân và gia ðình nạn nhân bom mìn.[138]

Tháng 6/2003, một ðội Cấp cứu tai nạn và hỗ trợ nạn nhân bom mìn (BRAVA) gồm 16 bác sĩ và y tá của Hải quân Mỹ ðã lần ðầu tiên ðến Việt Nam,thực hiện phẫu thuật cho 40 nạn nhân bom mìn và những người tàn tật khác. Tuy nhiên, một số nạn nhân bom mìn ðược biết ðã không tận dụng ðược cõ hội ðiều trị miễn phí này do không ðủ tiền mua vé tàu hỏa từ ccs tỉnh xa về Hà Nội.[139]

Nãm 2001, chưõng trình PHCN dựa vào cộng đồng đã ðược mở rộng từ 40 lên 45 tỉnh và ðến cuối nãm 2003 là 46 trên 61 tỉnh, thành phố. 56 bệnh viện tỉnh, thành phố ðã có khoa PHCN. Các chưõng trình đều do Bộ Y tế hoặc Quỹ Bảo trợ trẻ em quản lư. Những khó khăn về kinh phí và việc thiếu tài liệu giảng dạy và tập huấn viên có kinh nghiệm ðược xem là những nguyên nhân khiến chưõng trình không ðược nhân rộng ra tất cả các tỉnh, thành phố. Bộ Y tế ước tính 80-90% người tàn tật ở các tỉnh có chưõng trình PHCN dựa vào cộng ðồng có chút ít khả nãng tiếp cận các cõ sở này. Tuy nhiên, phần lớn các nhu cầu PHCN là ở cấp huyện và xã; trong khi ở ðó chỉ có 1% cõ sở PHCN. Ngoài việc cung cấp các dịch vụ PHCN y tế cõ bản, chưõng trình CBR còn chú trọng ðến các chưõng trình ðào tạo dạy nghề và tái hòa nhập xã hội cho người tàn tật.[140]

Ủy ban Chữ thập ðỏ Quốc tế (ICRC) thực hiện một chưõng trình sản xuất nẹp chỉnh hình ở Việt Nam từ nãm 1998 tại Trung tâm PHCN thành phố Hồ Chí Minh (Trung tâm TP. HCM) với sự hợp tác của Bộ LÐTBXH. Từ nãm 1995, chưõng trình này đã ðược Quỹ ðặc biệt dành cho người tàn tật của ICRC tài trợ. Chưõng trình còn hỗ trợ 6 trung tâm chân tay giả ở các tỉnh miền Trung và miền Nam là Ðà Nẵng, Cần Thõ, Bình Định, Nghệ An, Thanh Hoá, và Kon Tum. Chưõng trình hỗ trợ chi phí cho lần làm chân tay giả ðầu tiên cho những người tàn tật ðược coi là “nghèo túng” (những người không ðược nhà nước trợ cấp). Chi phí làm chân giả dưới gối cao gấp hai lần mức lưõng tháng trung bình. Những người tàn tật ðến từ các tỉnh lân cận ðược thu xếp chỗ ở miễn phí và ðược thanh toán chi phí ði lại và tiền ãn. Các trung tâm của ICRC ở thành phố Hồ chí Minh và Ðà Nẵng cung cấp các phụ kiện bằng polypropylene ðể làm nẹp chỉnh hình trên cả nước. Hội Chữ thập ðỏ Việt Nam (Hộ CTÐVN) chịu trách nhiệm xác ðịnh những người tàn tật có nhu cầu về dịch vụ này. Nãm 2003, các trung tâm do ICRC tài trợ ðã sản xuất 4.234 chân tay giả, trong ðó có 3.399 cái ðược cấp miễn phí cho những người tàn tật nghèo; khoảng 1.500 người là nạn nhân bom mìn. Các trung tâm còn phân phát 3.400 ðôi nạng và 542 xe lãn qua mạng lưới của Hội CTÐVN.[141] Trong khoảng thời gian từ nãm 2000 ðến 2002, các trung tâm ðược ICRC hỗ trợ đã sản xuất 7.403 chân tay giả (4.234 cái cho người tàn tật nghèo), trong số ðó có ít nhất 1.125 cái cho nạn nhân bom mìn; 2.920 cái (1.992 cái cho người tàn tật nghèo) trong nãm 2002; 2.404 cái (1.218 cái cho người tàn tật nghèo) trong nãm 2001; 2.079 cái trong nãm 2000 (1.024 cái cho người tàn tật nghèo).[142] Một Thỏa thuận hợp tác ba bên kư với Bộ LÐTBXH và Hội CTÐVN nãm 2004 ðã giúp kéo dài sự hỗ trợ của ICRC cho Viện Khoa học Chỉnh hình và PHCN tại Hà Nội.[143] ICRC hiện còn hỗ trợ ðào tạo kỹ thuật viên chỉnh hình, kể cả chưõng trình ðào tạo chính quy 3 nãm tại Trung tâm ðào tạo kỹ thuật viên chỉnh hình của Bộ LÐTBXH ở Hà Nội (VIETCOT).[144]

Tổ chức Prosthetics Outreach Foundation (POF) của Mỹ hiện đang hỗ trợ Trung tâm Chỉnh hình ngoại tuyến ở Hà Nội và Trung tâm Kỹ thuật Chỉnh hình ba Vì ở Hà Tây, cũng như các trung tâm PHCN và phòng khám lắp ráp chân tay giả ở Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Ninh, và Thái Bình. Hầu hết người tàn tật ðược tiếp cận thông qua chưõng trình ðiều trị ngoại tuyến; 400 người gồm cả nam, nữ và trẻ em ðược nhận chân tay giả mới và thêm 100 chân tay giả ðược sửa chữa hoặc thay mới mỗi nãm. Dự án còn ðào tạo kỹ thuật viên làm chân tay giả tại ðịa phưõng và nhận ðược tài trợ từ Quỹ Nạn nhân chiến tranh mang tên Leahy của Chính phủ Mỹ.[145]

Tổ chức VNAH trợ giúp 5 trung tâm PHCN ở Cần Thõ, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Ðịnh, Ðà Nẵng và Hà Tây. Nãm 2003, 62.500 ðô-la ðã ðược tài trợ ðể sản xuất chân tay giả, nẹp chỉnh hình và xe lăn cho các nạn nhân bom mìn ở tỉnh Quảng Bình.[146] Tại tỉnh láng giềng Quảng Trị, với sự phối hợp của Hội CTĐVN, VNAH đã trao tặng 600 xe lãn và 1.700 chân tay giả.[147] Năm 2002, VNAH đã trao tặng 2.500 xe lãn tay, xe ba bánh và chân tay giả.[148]

Quỹ Cựu chiến binh Mỹ (VVAF) đã cung cấp hõn 10.000 nẹp chỉnh hình cho 7.000 người ở 10 tỉnh miền Bắc kể từ nãm 1994 và tài trợ kinh phí cho các trung tâm PHCN tại Hà Nội, Hà Giang và Nam Ðịnh. Trong nãm 2003-04, một dự án hỗ trợ người khuyết tật về vận ðộng trị giá 2,6 triệu ðô-la do USAID tài trợ ðã ðược triển khai. VVAF, cùng với Công ty Ô-tô Ford, ðã triển khai chưõng trình điều trị ngoại tuyến trong nãm 1999. Với những chiếc xe tải ðược thiết kế theo yêu cầu do Công ty Ford tài trợ, chưõng trình này đã ðến ðược với 8 tỉnh, ðo và làm nẹp chỉnh hình cho gần 500 người.[149]

Tổ chức HI đã thực hiện một chưõng trình PHCN dựa vào cộng đồng cho các nạn nhân bom mìn ở tỉnh Quảng Trị cho ðến cuối nãm 2001. Chưõng trình dựa vào mạng lưới tình nguyện viên tại cộng ðồng và chãm sóc người tàn tật ở cùng khu phố. Hiện chưõng trình vẫn tiếp tục và hoàn toàn tự hoạt động sau khi đã tập huấn cho 11 bác sĩ và và kỹ thuật viên vật lư trị liệu. Những người này hiện có ðủ khả nãng ðể làm công tác tập huấn cho những người giám sát và các cộng tác viên tại cộng ðồng.[150]

Tổ chức Peace Trees Vietnam đã hoạt ðộng ở Quảng Trị từ nãm 1996 và hỗ trợ chi phí ãn uống, thuốc men và phưõng tiện ði lại ðến các bệnh viện tỉnh và phòng khám PHCN khu vực cho các nạn nhân tuỳ từng trường hợp cụ thể. Peace Trees Vietnam hiện ðang trao ðổi với các nạn nhân và gia ðình nạn nhân ðể xây dựng kế hoạch hành ðộng dài hạn nhằm giúp họ giảm bớt gánh nặng về tài chính. Peace Trees Vietnam còn trợ giúp lâu dài cho các gia đình nạn nhân khi cần thiết, tuy nhiên, mục tiêu chính là giúp họ đủ khả năng tự lo liệu cuộc sống. Năm 2003, Peace Trees Vietnam đã hỗ trợ 23 nạn nhân bm là trẻ em. Khoản hỗ trợ này bao gồm 400 ðô-la tiền học phí, mua sách vở và xe lãn. Ðối với các nạn nhân là người lớn, Peace Trees Vietnam phối hợp với Hội Phụ nữ tiến hành một chưõng trình tín dụng nhỏ cho vay vốn với nguồn vốn quay vòng là 38.000 đô-la.[151]

Tổ chức VVMF và Dự án RENEW tiến hành một chưõng trình hỗ trợ nạn nhân ở huyện Triệu Phong, Quảng Trị, từ năm 2001. Dự án RENEW đã nâng cấp cõ sở vật chất cho 19 trạm y tế ở Triệu Phong, cung cấp trang thiết bị y tế và tập huấn về công tác cấp cứu ðối với các nạn nhân bom mìn; 245 nhân viên y tế ðịa phưõng ðã ðược tập huấn. Dự án còn đang tham vấn với các nạn nhân bom mìn trên toàn huyện Triệu Phong ðể thiết kế các chưõng trình mới nhằm giúp họ tham gia trở lại vào lực lượng lao ðộng. Tháng 7/2001, Dự án RENEW ðã thực hiện một chưõng trình hướng dẫn các nạn nhân bom mìn trồng nấm ãn tại nhà ðể cung cấp cho các chợ ðầu mối bán buôn. Tháng 3/2002, 50 gia ðình nạn nhân đã tham gia khoá tập huấn. Đến năm 2003, dự án trồng nấm đã mở rộng ra 100 hộ gia đình. 60 gia đình khác ở 3 xã đã ðược nhận vốn vay thông qua Hội Phụ nữ.[152]

Từ năm 2002, Hội CTĐ Mỹ đã phối hợp với Hội CTÐVN ðể hỗ trợ người tàn tật ở 10 tỉnh. Trong số những người ðược hưởng lợi có cả các nạn nhân bom mìn, tuy nhiên hồ sõ lưu giữ không ghi nhận nguyên nhân gây tàn tật.[153]

Tháng 1/2003, tổ chức LSN đã kư kết một thỏa thuận 2 năm với UBND huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình để hỗ trợ các nạn nhân bom mìn và những người tàn tật khác. Qua khảo sát về người tàn tật ðã xác ðịnh ðược 712 người là nạn nhân bom mìn và 297 người tàn tật khác. Tính ðến tháng 3/2004, LSN ðã hỗ trợ 100 nạn nhân bom mìn, trong ðó có 32 người là những thành viên tích cực của mạng lưới nạn nhân bom mìn thuộc 6 xã. LSN dùng các nguồn hỗ trợ huy ðộng ðược từ cộng ðồng ðể giúp các nạn nhân cải thiện tình hình sức khỏe, ðiều kiện sống và hòa nhập về KT-XH.[154] Mỗi xã có một Hội Hỗ trợ người tàn tật có ðãng kư, song hạn chế về nguồn lực. Ở cấp tỉnh, các hội thường tổ chức các hoạt ðộng từ thiện và các lễ hội ðể hỗ trợ người tàn tật, giúp những người bình thường khác hiểu và chấp nhận những người tàn tật hõn.[155]

Tổ chức PCP Kids First của Mỹ hiện đang trợ giúp các nạn nhân bom mìn ở tỉnh Quảng Trị thôgn qua một chưõng trình học bổng cho trẻ em nghèo, trong đó có 100 học sinh bị các khuyết tật do chiến tranh. Kids First còn tài trợ xây dựng trường tiểu học Sông Hiếu ở thị xã Ðông Hà, trường tiểu học ðầu tiên trong cả nước ðược thiết kế phù hợp cho người tàn tật. Vào ngày 1/3/2003, công trình Làng PHCN của tổ chức Kids First trị giá 2,268 triệu đô-la ở thị xã Ðông Hà, Quảng Trị, ðã ðược khởi công xây dựng. Ðây sẽ là nõi ðào tạo thanh thiếu niên khuyết tật và có hoàn cảnh khó khãn về các kỹ nãng kinh doanh, công nghệ thông tin, nhân viên phục vụ, nghề mộc, nghề cõ khí và nông nghiệp. Làng sẽ liên kết với các tổ chức PCP khác nhằm ðáp ứng nhu cầu về y tế và dạy nghề cho 200-250 nạn nhân bom mìn và các trẻ em khác bị tàn tật do nguyên nhân chiến tranh sinh sống tại trung tâm.[156]

Tổ chức PCP Health Volunteers Overseas (HVO) của Mỹ đã hoạt động ở Việt Nam từ tháng 9/1992. Dự án PHCN Việt Nam của HVO nhằm mục ðích nâng cao chất lượng của các dịch vụ PHCN và y tế thông qua hoạt ðộng tập huấn cho các chuyên gia y tế trong lĩnh vực y học, ðiều dưỡng PHCN và vật lư trị liệu. Chưõng trình còn bao gồm cả hoạt động nâng cao nãng lực cho các tổ chức PHCN ðịa phưõng và do Quỹ Nạn nhân chiến tranh mang tên Leahy tài trợ.[157]

Các tổ chức tại ðịa phưõng cũng hỗ trợ ngưòi tàn tật, trong đó có các nạn nhân bom mìn, ðặc biệt là ở phía Nam. Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo TP. Hồ Chí Minh đã trao tặng hõn 1.000 xe lãn tại 15 tỉnh trên khắp cả nước trong nãm 2003. Các chưõng trình khác hỗ trợ kiểm tra sức khỏe và thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, với hõn một triệu người ðược hỗ trợ kể từ nãm 1999.[158] Nhiều nhóm từ thiện khác hoạt động dựa vào các chùa chiền và nhà thờ Thiên chúa giáo.

Chính sách ðối với người tàn tật và thực tiễn

Pháp lệnh về Người tàn tật nãm ðược ban hành nãm 1998 và có hiệu lực từ ngày 10/07/1999 quy ðịnh trách nhiệm của chính quyền, xã hội và gia đình, xác định rõ các quyền của người tàn tật về chãm sóc y tế, giáo dục, việc làm và tham gia các hoạt ðộng xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện Pháp lệnh này vẫn còn yếu, thiếu những cõ chế giám sát và thực thi.[159] Tháng 8/2003, Thủ tướng Phan Vãn Khải ðã chỉ thị cần phải có “những biện pháp mạnh mẽ” nhằm ðảm bảo Pháp lệnh ðược thực thi ðầy ðủ.[160]

Bộ LÐTBXH chịu trách nhiệm về các hoạt ðộng trợ giúp dài hạn và PHCN cho các nạn nhân bom mìn và những người tàn tật khác, với sự ðóng góp của Bộ GD&ÐT và Bộ Y tế.

Ngày 22/01/2001, Bộ LĐTBXH đã thành lập Ban Ðiều phối quốc gia về người tàn tật (NCCD).[161] Ở cấp tỉnh và huyện, chính quyền ðịa phưõng hoặc UBND có trách nhiệm về mặt quản lư đối với việc “chăm sóc và bảo vệ” người tàn tật.[162] Phong trào vì người tàn tật ở Việt Nam ðang tiếp tục nâng cao sự hiểu biết và sự thừa nhận của mọi người dân, từng bước tiến tới sự bình ðẳng hoàn toàn và những thay ðổi lớn trong thái ðộ của xã hội kể từ khi NCCD ðược thành lập; Sự tiến bộ còn bị hạn chế trong các lĩnh vực như khả nãng tiếp cận và việc làm cho người tàn tật.[163]

Diễn ðàn về người tàn tật, một sự liên kết của các tổ chức trong nước, ðược thành lập nãm 1999 và hoạt ðộng nhằm nâng cao nhận thức về quyền và nhu cầu của người tàn tật.[164] Các thành viên của Diễn ðàn về người tàn tật, NCCD và các tổ chức khác hiện ðang tích cực tham gia các cuộc thảo luận và các hoạt ðộng chuẩn bị cho Công ước Quốc tế về Người tàn tật.[165]

Việt Nam đã tham dự Hội nghị khu vực châu Á-Thái Bình Dưõng về hỗ trợ nạn nhân bom mìn tổ chức tại Bangkok từ 6-8/11/2001.


[1] Tuyên bố của phía Việt Nam, Hội nghị kư kết Hiệp ước/Diễn ðàn phòng chống bom mìn, Ốt-ta-oa, 2-4/12/1997.
[2] Ðôn Tuấn Phong, Ban Ðiều phối Viện trợ Nhân dân, phát biểu tại Diễn ðàn về Cãm-pu-chia, Lào và Việt Nam tại Phnom Penh, Cãm-pu-chia, 26-29/01/1999.
[3] Bộ Ngoại giao, “Vấn đề Mìn sát thưõng”, 2/03/2000.
[4] Phát biểu miệng. Ghi chép của Elizabeth Bernstein, Ðiều phối viên Phong trào Quốc tế về Cấm Mìn.
[5] Phỏng vấn Vũ Trần Phong, Vụ Các tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao, Băng-cốc, 19/09/2003.
[6] Ðại tá Bùi Minh Tâm và Nguyễn Thị Xuân Hưõng, “Tổng quan về công nghệ và kinh nghiệm rà phá bom mìn ở Việt Nam”, “Việt Nam: Hợp tác quốc tế: Triển vọng cấp tỉnh: Hoạt động phòng chống bom mìn lồng ghép và sự tham gia của cộng ðồng,” các tham luận ðược trình bày tại Hội thảo về Công nghệ và Hợp tác trong lĩnh vực rà phá bom mìn nhân ðạo, Côn Minh, Trung Quốc, 26-28/04/2004; bài trình bày của Hoàng Nam, Ðiều phối viên, Dự án RENEW, Nhóm Công tác về bom mìn, Hà Nội, 25/06/2004.
[7] Phỏng vấn Nguyễn Bá Hùng, Vụ phó, Vụ Châu Mỹ, Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 16/04/2004.
[8] Phỏng vấn Ðại tá Bùi Minh Tâm, Bộ Quốc phòng, hà Nội, 15/03/2000.
[9] Stephen D. Biddle, “Bom mìn ở châu Á,” tham luận tại Hội nghị về Bom mìn ở Phnom Penh, 1995.
[10] Xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 1999, tr. 513. Việt nam đã sản xuất các loại mìn mảnh MBV78A1, mìn mảnh MBV78A2, mìn MN79 và MB82B, mìn ðịnh hướng claymo MDH10, mìn mảnh NOMZ2B và mìn táo P40.
[11] Xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2001, tr. 583.
[12] Tuyên bố của Việt Nam, Hội nghị kư kết Hiệp ước Cấm Mìn / Diễn ðàn Phòng chống bom mìn, Ốt-ta-oa, 2-4/12/1997.
[13] Công vãn từ Nguyễn Mạnh Hùng, Vụ trưởng, Vụ Châu Mỹ, Bộ Ngoại giao, 8/03/2001. Tài liệu nghiên cứu chính sách nội bộ do Bộ Ngoại giao cung cấp cho Landmine Monitor, “Vấn ðề mìn sát thưõng,” 2/03/2000, cũng tuyên bố rằng Việt Nam chưa từng và sẽ không bao giờ xuất khẩu mìn sát thưõng.
[14] Tổ chức Quan sát Nhân quyền, Bom mìn: Một di sản chết người, 1993, tr. 103-4; Paul Davies, Cuộc chiến của những trái mìn, 1994, tr. 13-19, 44.
[15] An-gô-la, Điều 7 của Báo cáo, tr. 30.
[16] Ví dụ, các nhóm sắc tộc ở Miến Điện cho biết tìm thấy các loại mìn M-14 kiểu Mỹ do Việt Nam sản xuất trên biên giới Thái Lan-Miến Điện. Xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2000, tr. 541-542.
[17] Phỏng vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 13/05/2003.
[18] Xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2000, tr. 542. BOMICO là một ðõn vị của Bộ tư lệnh Công binh thuộc Bộ Quốc phòng.
[19] Xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 717.
[20] “Giới thiệu tổng quát về công nghệ rà phá bom mìn,” bài thuyết trình tại Hội thảo Côn Minh, 26-28/04/2004. Để đối chiếu, xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 717-8.
[21] Trích dẫn lời David Holdridge trong bài “Các tổ chức Việt Nam và Mỹ hợp tác ðiều tra tình hình bom mìn,” Báo Vietnam News, 29/01/2003.
[22] Ðại tá Bùi Minh Tâm, “Cuộc chiến ðấu sau chiến tranh”, Sự kiện & Nhân chứng (tạp chí quân ðội số ra hàng tháng), không rõ thời gian, tr. 17, 31; “Các hoạt ðộng và những thách thức trong hoạt ðộng rà phá bom mìn ở Việt Nam”, bài chưa ðãng, 2/2002.
[23] Landmine Monitor thu thập thông tin từ báo chí Việt Nam và nước ngoài.
[24] Phỏng vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 13/05/12003.
[25] Ví dụ, 10 tỉnh bị ném bom nhiều nhất theo thứ tự là Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Quảng Bình, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dưõng, Gia Lai, và Quảng Ngãi. Số liệu do Michael Sheinkman cung cấp, VVAF, 16/05/2004.
[26] Dự án RENEW, “Báo cáo Khảo sát về tác động của mìn và VLCN ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam”, 11/2003, tr. 45-7; Dự án RENEW và Sở Y tế tỉnh Quảng Trị, “Nghiên cứu về sự Hiểu biết-Nhận thức–hành vi ðối với hiểm hoạ bom mìn sau chiến tranh và tai nạn do bom mìn gây ra ở tỉnh Quảng Trị, Việt Nam”, 11/2003, tr. 28.
[27] Phỏng vấn Nguyễn Quang Vinh, Trưởng ban, và Ðại sứ Nguyễn Quư Bình, Phó Trưởng ban, Ban Biên giới của Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 16/05/2003.
[28] Dự án RENEW và UNICEF, Khảo sát về mức ðộ hiểu biết-Nhận thức-Hành vi, sắp xuất bản; Ủy ban 10-80, “Kết quả Khảo sát về tình hình và nạn nhân bom mìn ở A Lưới,” 2001, tr. 15-16.
[29] Công An TP. Hồ Chí Minh (báo ra hàng ngày), 21/12/2002, tr. 1; Người Lao Ðộng (báo ra hàng ngày), 16/12/2002, tr. 4.
[30] Phòng vấn Trần Khánh Phôi, Ðiều phối viên Chưõng trình, tổ chức MAG, Quảng Trị, 30/03/2004.
[31] Dự án RENEW và Quảng Trị, “Khảo sát về mức độ hiểu biết ...,” 11/2003, tr. 10, 32.
[32] Phỏng vấn Nguyễn Quang Vinh và Nguyễn Quư Bình, Bộ Ngoại giao, 16/05/2003.
[33] Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 719, 721; Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2001, tr. 583, 587.
[34] Landmine Monitor hiện có nhiều thêm nhiều báo cáo về những người thu nhặt sắt thép phế liệu.
[35] Dự án RENEW, “Khảo sát ở Huyện Triệu Phong,” 11/2003, tr. 62.
[36] “Dùng bom ðánh cá ngay trước mắt những người dân ðịa phưõng,” Báo Vietnam News, 19/09/2002; “Bom thu ðược từ tàu chiến Mỹ bị ðắm,” Báo Tiền Phong (báo ra hàng ngày), 12/03/2003, tr. 2; Sài Gòn Giải Phóng (báo ra hàng ngày), 12/03/2003, tr. 6.
[37] Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2002, tr. 782; Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 720.
[38] VVAF, “Ðiều tra và ðánh giá tác ðộng của mìn và VLCN ở Việt Nam”, tờ giới thiệu; Vinh Nguyễn,
“Hợp tác cùng giải quyết di chứng bom mìn sau chiến tranh,” Báo Lao Động, 26/02/2004.
[39] Phỏng vấn Guy Rhodes, Giám ðốc chưõng trình, VVAF, Hà Nội, 22/04/2004.
[40] VVAF, “Khảo sát và ðánh giá tác ðộng của mìn và VLCN ở Việt Nam.”
[41] Ví dụ, xem David Lamb, “Mỹ ðang xây dựng một mối quan hệ quân sự chưa từng có với Việt Nam”, Los Angeles Times, 9/04/2004.
[42] Bài thuyết trình của Guy Rhodes và Michael Sheinkman, VVAF, Nhóm công tác về bom mìn, Hà Nội, 20/12/2004.
[43] Những phát hiện ban ðầu quan hai cuộc khảo sát này ðã ðược trình bày trong Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 719-20, 725.
[44] Dự án RENEW, “Khảo sát ở huyện Triệu Phong,” 11/2003, tr. 28-9.
[45] “Kết quả cuộc khảo sát ðầu tiên của Mỹ về tình hình bom mìn,” Báo Viet Nam News, 27/11/2003.
[46] Phỏng vấn Trần Vãn Tuấn, Phó Giám ðốc, Sở Lao ðộng-Thưõng binh-Xã hội tỉnh Quảng Bình, Hà Nội, 26/03/2004.
[47] Tổ chức Handicap International Belgium, Bản tin, TP, Hồ Chí Minh, Quư II/2003.
[48] Thông tin do Nguyễn Thị Y Duyên cung cấp, Chưõng trình Phòng chống thưõng tật cho trẻ em, UNICEF, Hà Nội, 13/04/2004.
[49] Ðể biết thêm chi tiết, xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 719.
[50] Phỏng vấn Trần Khánh Phôi, MAG, 30/03/2004.
[51] UNMAS, “Hồ sõ về các dự án phòng chống bom mìn 2004,” tr. 364.
[52] Như trên, tr. 364-5, 372.
[53] Thông tin do Nick Proudman, Giám ðốc Chưõng trình, MAG, cung cấp, 21/04/2004.
[54] Nguyễn Minh Kỳ, “Cần thành lập một trung tâm ðể khắc phục hậu quả chiến tranh,” Lao Động, 15/12/2002.
[55] Phỏng vấn Hoàng Nam, Ðiều phối viên, Dự án RENEW, Quảng Trị, 30/03/2004.
[56] Phỏng vấn Gerd Wilkommen, Giám sát kỹ thuật cao cấp, SODI, Quảng Trị, 31/03/2004; Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế, bài trình bày tại Hội nghị quốc tế về hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức PCP quốc tế, Hà Nội, 19/11/2003.
[57] Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 721.
[58] Phỏng vấn Trần Khánh Phôi, MAG, 30/03/2004.
[59] Phỏng vấn Guy Rhodes, VVAF, Hà Nội, 20/02/2004.
[60] Phỏng vấn một nguồn tin của Chính phủ Mỹ, Hà Nội, 17/03/2004.
[61] Phỏng vấn Thiếu tướng Vũ Tần, Cục trưởng Cục Ðối ngoại, Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 13/05/2003; thông tin từ VVAF, 23/05/2003.
[62] Phỏng vấn Nguyễn Ngọc Quư, Sở Ngoại vụ tinh Quảng Bình, Đồng Hới, 26/03/2004.
[63] Phỏng vấn Nguyễn Quang Vinh và Nguyễn Quư Bình, Bộ Ngoại giao, 16/05/2003.
[64] “Ðoàn công tác về vấn ðề biên giới của Bộ [Ngoại giao] kiểm tra và làm việc tại hai tỉnh Lai Châu và Lạng Sõn,” Quốc Tế (Báo ra hàng tuần), 24-30/04/2003.
[65] Dự án RENEW là một nỗ lực chung của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị và Quỹ Tưởng niệm Cựu chiến binh Mỹ VVMF (Mỹ).
[66] Số liệu do Trần Khánh Phôi cung cấp, MAG, Quảng Trị, 31/03/2004.
[67] “Tổ chức phi chính phủ Anh giúp Quảng Bình rà phá bom mìn,” Tin Tức (báo ra hàng ngày), 10/03/2004, tr. 5.
[68] Phỏng vấn Trần Khánh Phôi, MAG, 30/03/2004; Thư điện tử từ Tim Carstairs, Giám đốc phụ trách chính sách, MAG, 6/10/2004.
[69] Thông tin do Nick Proudman cung cấp, MAG, 21/04/2004; thư ðiện tử từ Tim Carstairs, MAG, 6/10/2004.
[70] Thông tin do Nick Proudman cung cấp, MAG, 21/04/2004.
[71] Phỏng vấn Nguyễn Ngọc Quư, tỉnh Quảng Bình, 26/03/2004.
[72] Thông tin do Nick Proudman cung cấp, MAG, 21/04/2004.
[73] “Gần 24.000 quả mìn ðược rà phá ở tỉnh Quảng Trị,” Lao Động, 27/09/2003.
[74] Thông tin do Ilona Schleicher cung cấp, Văn phòng Đối ngoại, SODI, Berlin, 13/07/2004
[75] Thông tin từ Lutz Vogt, Chủ tịch, Potsdam Kommunikation, 13/07/2004.
[76] Ngọc Mai, “Phong trào giải phóng ðất ðai khỏi bom mìn ðược Ðức hỗ trợ 1 triệu ðô-la ,” Báo Vietnam Investment Review, 16-22/02/2004, tr. 14.
[77] “Ðức hỗ trợ 1 triệu ðô-la cho hoạt ðộng rà phá bom mìn ở Việt Nam” Báo Lao Động, 13/02/2004.
[78] Thông tin từ Lutz Vogt, Chủ tịch, Potsdam Kommunikation, 13/07/2004.
[79] Thông tin do Brendan Cantlon, Ðiều phối viên dự án, Dự án rà phá bom mìn và phát triển cộng ðồng ở Thừa Thiên-Huế cung cấp, 13/07/2004; “Úc giúp một tỉnh miền Trung rà phá vật liệu nổ,” Báo Viet Nam News, 8/05/2003.
[80] Phỏng vấn Chuck Searcy, Quỹ Tưởng niệm cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam (VVMF), Hà Nội, 8/04/2004.
[81] Hoài Nam, “Những người lính công binh kiên trì giúp Quảng Trị thoát khỏi các loại vật liệu chưa nổ,” Báo Viet Nam News, 19/04/2004.
[82] Phỏng vấn Chuck Searcy, VVMF, Hà Nội, 21/04/2004.
[83] Dự án RENEW và Quảng Trị, “Khảo sát về mức ðộ hiểu biết ...,” 11/2003, tr. 30-1, 42-4. Tuy nhiên, kết quả ðánh giá ban ðầu dự án GDPTBM trong nhà trường của tổ chức Catholic Relief Services (CRS) lại cho thấy trao ðổi trực tiếp thông quan cộng ðồng có thể có hiệu quả hõn trong việc làm thay ðổi hành vi so với sử dụng các phưõng tiện thông tin ðại chúng. Phỏng vấn Ðặng Hưõng Giang, Trưởng nhóm ðánh giá, CRS, Quảng Trị, 1/04/2004.
[84] Phỏng vấn Trần Văn Tuấn, tỉnh Quảng Bình, 26/03/2004.
[85] Phỏng vấn Nguyễn Thị Y Duyên, UNICEF, Hà Nội, 15/04/2004.
[86] Thông tin do Nguyễn Thị Y Duyên cung cấp, UNICEF, Hà Nội, 13/04/2004.
[87] Phỏng vấn Trần Văn Tuấn, tỉnh Quảng Bình, 26/03/2004.
[88] Phỏng vấn Hoàng Nam, Dự án RENEW, 30/03/2004; Dự án RENEW, “Khảo sát ở huyện Triệu Phong”, 11/2003, tr. 27.
[89] Bài thuyết trình của Dưõng Trọng Huế, Dự án RENEW, và Isabelle Bardem, UNICEF, tại cuộc họp Nhóm công tác về bom mìn, Hà Nội, 20/02/2004.
[90] Xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2002, tr. 783-784, và Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 724.
[91] Bài thuyết trình của Thái Thị Hạnh Nhân, Trợ lư dự án, CRS, Nhóm Công tác về bom mìn, Hà Nội, 20/02/2004.
[92] Thư ðiện tử từ Chuck Meadows, Giám ðốc ðiều hành, PeaceTrees Vietnam, 12/05/2003.
[93] Thư ðiện tử từ Chuck Meadows, PeaceTrees Vietnam, 1/07/2004.
[94] Hoài Nam, “Rà phá bom mìn trên sân trường,” Báo Viet Nam News, 1/04/2004; Việt Thắng, “Lời cảnh báo từ các thư viện,” Báo Viet Nam News, 16/09/2003.
[95] Thông tin từ Ilona Schleicher, SODI, 8/07/2004.
[96] Thông tin từ Lutz Vogt, Chủ tịch, Potsdam Kommunikation, 13/07/2004.
[97] Thông tin do Brendan Cantlon cung cấp, Dự án rà phá vật liệu chưa nổ, 6/03/2004.
[98] Thông tin từ Bùi Vãn Toàn, Giám đốc tại Việt Nam, VNAH, 6/07/2004.
[99] Bài thuyết trình của Nguyễn Mai Phưõng, Cán bộ dự án, VNAH, Nhóm Công tác về bom mìn, Hà Nội, 20/02/2004; UNMAS, “Hồ sõ các dự án phòng chống bom mìn”, tr. 371.
[100] Bài thuyết trình của David Boisson, Đại diện, HI, Nhóm Công tác về bom mìn, Hà Nội, 20/02/2004.
[101] Ðại tá Bùi Minh Tâm, Giám ðốc, BOMICO, “Hoạt ðộng và những thách thức trong hoạt ðộng rà phá bom mìn ở Việt Nam”, báo cáo tóm tắt, ðược chỉnh sửa tháng 2/2002.
[102] Như trên. Tính toán này dựa trên tỷ lệ 8% ðất nước bị nhiễm bom mìn (=26.500 km2) và mức chi phí rà phá 1 héc-ta của quân ðội (2.300 ðô-la/ha). Hoạt ðộng hỗ trợ nạn nhân ước tình cần 100 đô-la/nam trong 10 năm; không rõ cõ sở ðể ðưa ra con số này, song phải lên ðến gần 1.500 ðô-la/nạn nhân .
[103] Phỏng vấn một nguồn của Chính phủ Mỹ, 21/04/2004.
[104] USAID, “Quỹ hỗ trợ nạn nhân chiến tranh mang tên Patrick J. Leahy, Tóm tắt hố sõ hoạt ðộng,” Mùa Xuân 2004, tr. 57.
[105] Thông tin do Don Townsend, Cố vấn, LSN cung cấp, 17/03/2004.
[106] “GTZ ở Việt Nam,” hiện có tại địa chỉ gtz.de.
[107] Tỷ giá: A$=$0.652. Cục Dự trữ liên bang Mỹ, “Danh mục các tỷ giá hối ðoái (hàng nãm),” 5/01/2004.
[108] Thông tin do Brendan Cantlon, Dự án rà phá bom mìn, cung cấp, 603/2004.
[109] Phỏng vấn Nguyễn Hoàng Hoa, Ban Kinh tế, Sứ quán Nhật Bản, Hà Nội, 16/09/2003 và 21/04/2004.
[110] Phỏng vấn Chuck Searcy, VVMF, Hà Nội, 21/04/2004.
[111] Như trên; phỏng vấn chuyên gia tư vấn xây dựng của ADB, Huế, 19/04/2003.
[112] Tổ chức CPI đã hỗ trợ cấp cứu 53 vụ tai nạn bom mìn ở 10 tỉnh trong nãm 2003 khiến 31 người chết và 71 người bị thưõng. Số liệu do Hugh Hosman, Trưởng Ðại diện, CPI, cung cấp, 26/04/2004. Landmine Monitor ghi nhận có 62 người chết và 95 người bị thưõng do bom mìn trong nãm 2003. Trong cả hai trường hợp ðều ghi nhận có sự gia tãng số vụ tai nạn.
[113] BOMICO, “Tình hình ảnh hưởng của bom mìn và vật liệu nổ do chiến tranh để lại,” dự thảo báo cáo do VVAF cung cấp, 2003, tr. 7.
[114] “Khái quát về công nghệ rà phá bom mìn,” bài trình bày tại Hội thảo Côn Minh, 26-28/04/2004.
[115] “Việt Nam cùng các cựu chiến binh Mỹ tiến hành khảo sát bom mìn,” Reuters, 23/02/2004.
[116] Xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 726-727.
[117] Phỏng vấn Hugh Hosman, Clear Path International, Quảng Trị, 31/03/2004.
[118] Tổ chức CPI đã hỗ trợ cấp cứu 20 vụ tai nạn làm chết 13 người và làm bị thưõng 28 người khác ở 4 tỉnh. Số liệu do Hugh Hosman, CPI, cung cấp, 26/04/2004. Landmine Monitor ghi nhận có 35 người chết và 52 người bị thưõng do tai nạn bom mìn qua các tin báo chí trong nước. Trong cả hai trường hợp ðều ghi nhận có sự gia tãng số vụ tai nạn.
[119] “Ðạn nổ khiến hai người chết,” Báo Lao Động, 5/04/2004.
[120] Phỏng vấn Hoàng Ðãng Mai, Giám ðốc, Sở Ngoại vụ tỉnh Quảng Trị, 17/04/2003.
[121] Dự án RENEW và Quảng Trị, “Khảo sát về mức ðộ hiểu biết ...”, 11/2003, tr. 20-25, 80.
[122] Bài thuyết trình của Dưõng Trọng Huế, Dự án RENEW, tại cuộc họp Nhóm Công tác về bom mìn, Hà Nội, 20/02/2004; Dự án RENEW và Quảng Trị, “Khảo sát về mức độ hiểu biết ...,” 11/2003, tr. 28-9, 79; Số liệu do Don Townsend, LSN, cung cấp, 26/03/2004; Số liệu do Hugh Hosman, CPI, cung cấp, 7/04/2004.
[123] Quang Chính, “Những chiến sĩ mở ðường ðầy quyết tâm trên con ðường mòn Hồ Chí Minh,” Viet Nam News, 1/11/2003.
[124] Hoài Nam, “Những người lính công binh kiên trì giúp Quảng Trị thoát khỏi các loại vật liệu chưa nổ,” Báo Viet Nam News, 19/04/2004; Các báo cáo tại cuộc họp Nhóm Công tác về bom mìn, Hà Nội, 25/04/2003.
[125] “Bom nổ làm chết một chuyên gia rà phá bom mìn trên ðường Hồ Chí Minh,” Reuters (Hà Nội), 2/10/2001.
[126] Huw Watkin, “Con ðường mang bom cần ðược giúp tháo gỡ,” South China Morning Post, 24/03/2000; phỏng vấn qua ðiện thoại với Chuck Searcy, Hà Nội, 21/04/2000.
[127] “25 nãm sau, di chứng chết người của chiến tranh ở Việt Nam,” Baltimore Sun, 27/04/2000.
[128] Dự án RENEW và Quảng Trị, “Khảo sát về mức ðộ hiểu biết ...,” 11/2003, tr. 15, 18-19, 72.
[129] Ủy ban 10-80, “Kết quả khảo sát về tình hình bom mìn và nạn nhân bom mìn ở A Lướii,” tr. 27.
[130] Phỏng vấn Trần Văn Tuấn, tỉnh Quảng Bình, 26/03/2004.
[131] BOMICO, “Ảnh hưởng của bom mìn và các loại vật liệu nổ”, dự thảo báo cáo, 2003, tr. 7. Số liệu này ghi nhận có thêm 601 người chết và 1.788 người bị thưõng kể từ tháng 5/1998 so với số liệu ðược trích dẫn trong các báo cáo trước ðây về tình hình bom mìn. Xem Báo cáo về tình hình bom mìn 2001, tr. 589.
[132] Bộ LÐTBXH và UNICEF, “Phân tích tình hình trẻ em tàn tật ở Việt Nam,” Hà Nội, 11/2003, tr. 47-48.
[133] Xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2002, tr. 785.
[134] Xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 727-728.
[135] Dự án RENEW và Quảng Trị, “Khảo sát về mức ðộ hiểu biết ...,” 11/2003, tr. 31-2; Phỏng vấn Don Townsend, Cố vấn, LSN, Quảng Bình, 26/03/2004; Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 728.
[136] Dự án RENEW, “Khảo sát ở huyện Triệu Phong,” 11/2003, tr. 64-6.
[137] Xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 728.
[138] Phỏng vấn Hugh Hosman, CPI, Quảng Bình, 28/03/2004; Bài thuyết trình của Hugh Hosman tại cuộc họp Nhóm Công tác về bom mìn, Hà Nội, 17/01/2003; phỏng vấn Hugh Hosman, Quảng Trị, 17/04/2003 và 19/03/2002; Martha Hathaway, Giám đốc dự án, CPI, trả lời bảng hỏi điều tra về hỗ trợ nạn nhân của Landmine Monitor, 13/03/2002.
[139] Hải Vân, “Hai kẻ thù cũ cùng giúp các nạn nhân bom mìn phục hồi,” Viet Nam News, 2/07/2003; “Cùng hợp tác thường xuyên hõn,” Lao Động, 25/06/2003.
[140] Nguyễn Xuân Nghiên, Bài giảng Phục hồi Chức nãng dựa vào Cộng ðồng (Hà Nội: Nhà xuất bản Y học, 2004), tr. 19, 26; Bộ LÐTBXH và UNICEF, “Phân tích tình hình,” 11/2003, tr. 34; xem thêm Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 728; Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2002, tr. 785.
[141] Số liệu do Peter Poetsma, ICRC, cung cấp, TP. Hồ Chí Minh, 24/03/2004; Quỹ ðặc biệt dành cho người tàn tật của ICRC, “Báo cáo thường niên 2003,” Geneva, 2/2004, tr. 13-16.
[142] Quỹ ðặc biệt dành cho người tàn tật của ICRC, “Báo cáo thường niên 2002,” Geneva, 4/2003, tr. 8; “Báo cáo thường niên 2001,” 05/2002; “Báo cáo thường niên nãm 2000,” 6/2001; thư ðiện tử từ Peter Poetsma, ICRC, 2/05/2003; phỏng vấn Peter Poetsma, Giám ðốc, Chưõng trình PHCN của ICRC, TP. Hồ Chí Minh, 1/06/2002.
[143] ICRC, “Chưõng trình Chỉnh hình, sự hợp tác ba bên giữa Bộ LĐTBXH, Hội CTĐVN và ICRC/SFD”,
Báo cáo tóm tắt, ðược chỉnh sửa tháng 2/2004.
[144] VIETCOT do GTZ (Ðức) tài trợ.
[145] USAID, “Quỹ Nạn nhân chiến tranh mang tên Patrick J. Leahy: Hồ sõ hoạt ðộng 2004,” tr. 57; xem thêm trang thông tin ðiện tử của tổ chức Prosthetics Outreach Foundation tại địa chỉ www.pofsea.org
[146] Phỏng vấn Trần Văn Tuân, Quảng Bình, 26/03/2004; Bài thuyết trình của Nguyễn Mai Phuong, VNAH, 20/02/2004; thư ðiện tử từ Bùi Vãn Toàn, VNAH, 27/05/2003.
[147] Sở Lao động tỉnh Quảng Trị, “Báo cáo Tình hình Người Tàn tật ở tỉnh Quảng Trị”, báo cáo không ðề ngày, tr. 4.
[148] Vietnam News Service, 25/03/2003, tr. 3; Lao Động, 24/03/2003, tr. 3; bản tin VNAH và HealthEd, mùa thu 2002.
[149] Thư ðiện tử từ Larrie Warren, Giám ðốc, PHCN sau chiến tranh, VVAF, 24/09/2004.
[150] Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2002, tr. 786.
[151] Hoài Nam, “Tháo gỡ mìn trên sân trường,” Viet Nam News, 1/04/2004; “Hậu quả tàn khốc của chiến tranh vẫn còn hiện diện ở tỉnh Quảng Trị,” Viet Nam News, 13/05/2003; phỏng vấn Quang Lê, Giám ðốc tại Việt Nam, Peace Trees Vietnam, Quảng Trị, 16/03/2002.
[152] Phỏng vấn Hoàng Nam, Dự án RENEW, 30/03/2004; Dự án RENEW, “Khảo sát ở huyện Triệu Phong,” 11/2003, tr. 28; Thông tin do Dự án RENEW cung cấp, 18/03/2002.
[153] Thư ðiện tử từ Marcie Friedman, Giám ðốc tại Việt Nam, Hội CTÐ Mỹ, 20/04/2004.
[154] Thông tin do Don Townsend, LSN, cung cấp, 17 và 26/03/2004; phỏng vấn Michelle Hecker và Joelle Caschera, LSN, Quảng Bình, 21/04/2003.
[155] Phỏng vấn Don Townsend, LSN, Quảng Bình, 26/03/2004.
[156] Phỏng vấn Nguyễn Đức Tân, Phòng đối ngoại tỉnh Quảng Trị, Ðông Hà, 31/03/2004; Hoài Nam, “Một thôn chú trọng công tác chãm sóc trẻ khuyết tật,” Viet Nam News, 5/03/2003.
[157] USAID, “Quỹ Nạn nhân chiến tranh mang tên Patrick J Leahy: 2004,” tr. 56; Linda James, HVO, trả lời bảng hỏi ðiều tra của Landmine Monitor, 25/02/2002.
[158] “Một tổ chức từ thiện tặng xe lãn cho trẻ em tàn tật,” Viet Nam News, 18/06/2003; Thế Uyên, “Ðiều kỳ diệu giữa ðời thường,” Lao Động, 18/02/2004; Lê Thanh Hà, “Trao tặng 1.000 xa lãn,” Tuổi Trẻ (báo ra hàng ngày), 14/11/2003.
[159] Bộ LÐTBXH và UNICEF, “Phân tích tình hình,” 11/2003, tr. 19, 22; Dưõng Thị Vân, Chủ tịch, “Nhóm Tưõng lai tưõi sáng cho người khuyết tật: Báo cáo Việt Nam,” ðược trình bày tại cuộc họp và thảo luận của nhóm chuyên gia về Công ước Quốc tế nhằm bảo vệ và nâng cao quyền và phẩm giá của người khuyết tật, Bangkok, 2-4/06/2003; xem thêm Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2003, tr. 731.
[160] “Thủ tướng Phan Vãn Khải kêu gọi dành nhiều sự chãm sóc hõn nữa cho người khuyết tật,” Viet Nam News, 2/08/2003.
[161] Ðể biết thêm chi tiết, xem Báo cáo về tình hình bom mìn năm 2001, tr. 591.
[162] Ðiều 16, Nghị ðịnh số 55/1999/ND-CP (10/07/1999) hướng dẫn thi hành Pháp lệnh.
[163] “Các quan chức cho biết Việt Nam là nước chãm sóc tốt người tàn tật,” Viet Nam News, 7/04/2004.
[164] HI, “Hỗ trợ nạn nhân bom mìn: Báo cáo Thế giới năm 2002,” Lyon, 12/2002, tr. 252.
[165] Phỏng vấn Phạm Thị Bình Minh, HVO, Hà Nội, 15/04/2004; thư ðiện tử từ Dưõng Thị Vân, Nhóm Tưõng lai tưõi sáng, 15/04/2004.